Tôi đang ngồi viết danh sách đi chợ để mua đồ về làm giỗ Ba Má cuối tuần này. Ngày giỗ nếu không rơi vào 30 tháng Tư, làm nỗi buồn nhân ba, thì rớt vào ngày Mother Day làm niềm vui giảm hơn nửa. Những mốc ngày khó quên cho biết bao người và cho riêng mình tôi. Dân Việt Nam hai bên bờ Thái Bình Dương hoặc biểu tình hoặc bán pháo hoa cho ngày 30 tháng Tư, còn tôi sẽ thờ ơ với chuyện thắng thua vận nước, chỉ thấy một màu trắng nhức nhối của dải khăn tang ngày Má mất. Nếu thiên hạ rộn ràng mua quà mua hoa cho ngày lễ Mẹ, tôi sẽ nhìn thấy màu đỏ thắm của những đóa hoa hồng được đặt trên nắp quan tài của Ba, vẻ lẻ loi côi cút của bó hoa linh lan dại hái trong rừng Hal, bọc lại bằng giấy bạc để cạnh Má. Ngày lễ trôi qua, ngày giỗ trôi qua, dư âm còn lại là nỗi cay đắng trong lòng khi gặm nhấm những mất mát của mình. Dù cho có ai đó đã bảo, chừng đó năm rồi còn gì. Ừ, thì đã không còn nước mắt, nhưng lòng vẫn còn quặn đau. Ừ, thì đã không còn nức nở, nhưng sao tim vẫn còn nhức nhối. Ừ, thì xét cho cùng mất mát vẫn luôn luôn là mất mát.
Năm
nay ngày 30 tháng 4, buổi sáng tôi tất bật với giải thi đấu tennis, cái này
không lựa chọn được, Hiệp hội Tennis đâu
có biết rằng tôi mất mẹ ngày này để mà tránh? Xong tennis quăng vợt nhảy vào sở
ngồi chầu thêm hai tiếng nữa. Khi quyết định chọn ngày cho project lên khung,
làm sao tôi có thể mở miệng nói, ồ không được, ngày này tôi phải ngồi nhà
thương khóc Ba Má tôi? Và đến tối thì tôi ngồi cười ha hả với vở opera Người Thợ
Cạo thành Seville, cái ngày duy nhất trong năm tôi có thể xem được, làm sao bảo
Figaro rằng khoan để tôi làm giỗ cho hai đấng sinh thành trước đã rồi mới xem
ông náo loạn sân khấu sau. Thế cho nên khi nhang khói đã lụi tàn trên bàn thờ
Ba Má ở Bỉ, ở Houston, thì giờ mới đến phiên tôi. Không làm đúng ngày Má mất,
tôi sẽ làm ngày 7 tháng Năm, ngày Ba mất.
Thế
đấy, hoặc người này hoặc người kia, hoặc ngày này hoặc ngày nọ. Xê xích trong một
tuần, tôi vẫn có thể làm giỗ cho cả hai người. Người trước người sau lần lượt bỏ
chúng tôi ra đi biền biệt, đi mãi không bao giờ trở lại. Có còn chăng là những
di ảnh của cả hai trên bàn thờ ở nhà các con, đôi mắt bất động nhìn xuống chúng
tôi, nụ cười bất động dành cho chúng tôi, và cả hai rất đỗi bình thản. Ba đã ra
đi mười năm, Má cũng được năm năm. Tro cốt của cả hai người chắc đã kịp đi vòng
quanh thế giới được dăm vòng rồi, khởi đầu từ biển Bắc ở Bỉ, theo hải triều chu
du ra đến Đại Tây Dương, rồi vòng xuống Thái Bình Dương. Biển cả vẫn mênh mông mịt mùng, tro cốt Ba tro cốt Má cứ thong thả mà đi,
không còn chúng tôi ở đàng sau nôn nóng giục giã từng bước chân như những khi
đi chơi với chúng tôi nữa. Lắm khi tôi lẩn thẩn tự hỏi từ dạng cát bụi, không
biết sau chừng đó năm tháng, tro cốt hai người đã chuyển thể thành dạng gì rồi.
Và dù có ở dưới hình dạng nào, liệu Ba Má có chịu khó lội dòng quay ngược về lại
biển Bắc lạnh lẽo với chúng tôi, hay chỉ tìm đến nhau bằng tâm tưởng mà thôi?
Trong những giấc mơ mộng mị mà thôi? Trong những nỗi nhớ ngút ngàn khi nhìn thấy
một màu hoa, bắt gặp một mùi vị mà ngày xưa Ba hay Má đã từng ưa thích?
Cây
lựu bên hông nhà tôi đã trổ hoa đỏ rực một góc trời. Mỗi khi hoa hé nở trên nền
trời xanh biếc, tôi lại tự nhủ sắp tới ngày giỗ Ba giỗ Má. Màu hoa làm tôi nhớ
những chuyến đi Bỉ vội vàng rồi quay về lại với tang tóc trong lòng, nhìn hoa lá
quanh nhà mà lòng lạnh căm căm, sau đó phẫn nộ với màu hoa thắm vì tại sao hoa
vẫn rực rỡ trong khi tôi đang tan chảy thành những vũng nước mắt. Sau này tôi
chợt hiểu nỗi đau có lớn đến đâu, mọi sự còn lại vẫn tiếp tục sống còn, vạn vật vẫn tiếp diễn, và tôi phải vượt qua nỗi
đau để tiếp tục cuộc đời mình. Để cho năm năm sau ngày Má mất, mười năm sau
ngày Ba mất, tôi ngồi trong rạp hát Fort Worth, cười thoải mái với Figaro. Tôi
tiếp tục với cuộc đời mình. Ba Má, một lần nữa, lại đứng bên lề con đường tôi
đi…Tôi tin rằng cả hai không màng lắm đâu, vì khi đứa con cuối cùng tung cánh
ra ràng, Ba Má đã chọn cho mình chỗ đứng bên lề rồi. Và cũng như tôi bây giờ, đã
đứng bên lề cuộc sống của hai thằng con mình.
Nói
thế thôi chứ trong khi viết phải nấu gì phải mua gì để làm cỗ cúng, lòng tôi vẫn
chùng xuống, thật thấp, thật gần với những
giọt nước mắt. Nhớ lại những ngày tháng ấy, tôi thật sự căm ghét tiếng chuông
điện thoại dựng tôi dậy vào nửa đêm, hoảng hốt bảo tôi Ba không xong rồi, Má
không xong rồi, liệu thu xếp về ngay. Tôi căm ghét phải hộc tốc vào internet
lùng sục những chuyến bay đi sớm nhất, mua vé bằng mọi giá. Tôi căm ghét phải gọi
vào sở run rẩy bảo tôi phải đi ngay vì gia đình có chuyện lớn, và tôi càng căm
ghét chính mình, căm ghét tất cả khi xếp quần áo vào cái vali xách tay, tôi phải
bỏ thêm vào đó bộ quần áo vest đen, sơ mi trắng, đôi giày đen, bộ đồ đưa tang của
mình. Với tất cả những căm ghét đó tôi ra phi trường. Hai lần. Trong mười năm.
Dù cho tôi đến Bruxelles vào mùa xuân, nắng nhẹ, trời trong, cỏ xanh và hoa lá
tưng bừng, tất cả không làm cho lòng tôi cảm thấy nhẹ nhõm hơn. Dù cho tôi có ngồi
giữa anh chị em, những người chung cùng nỗi mất với tôi, cùng nhỏ lệ với tôi, cũng
chẳng làm tôi thấy được nguôi ngoai. Và tôi đành chờ thời gian trôi qua để làm
nước mắt phai nhòa…
Mười
năm về trước, tôi biết Ba mất trước khi lên máy bay ở Fort Worth. Năm năm về
trước tôi biết Má mất khi đặt chân xuống phi trường Zaventem. Chuyến bay về với Ba, tôi ngồi cạnh một
thương gia người Nhật, ông ta huyên thuyên về chuyện buôn cá buôn tôm với
Bruxelles, tôi chỉ nghe bằng một lỗ tai. Khi ông ta hỏi cô về Bỉ thăm gia đình
à, tôi gật đầu, không muốn dài dòng rằng tôi về để chịu tang Ba tôi. Nỗi đau mới
mẻ quá cho nên tôi chẳng thể san sẻ nổi cho một người xa lạ. Tôi nhìn ra khung
cửa tối mò, đêm đen bất tận tự hỏi giờ này Ba đang ở đâu, Ba có còn đau đớn nữa
không rồi thổn thức trong lòng. Chuyến bay về với Má, tôi ngồi chờ ở phi trường
Dallas Fort Worth lúc 7 giờ tối. Tivi khắp nơi đang chiếu cảnh đám cưới lộng lẫy
của Hoàng Tử Williams với công nương Kate nước Anh. Tôi nhìn mà chẳng thấy gì. Lúc
ấy không có Skype lẫn Viper, tôi đứng ngồi không yên, thấp thỏm không biết Má
ra sao. Trên chuyến bay kỳ này, tôi ngồi cạnh một tên Đức to béo, nửa đêm nó nôn
ọe vào cái mền tôi đắp vì nốc bữa tối quá nhiều! Tôi nhảy nhổm ra khỏi chỗ ngồi,
gọi chiêu đãi viên dẫn tôi qua ngồi ghế khác. Tôi ôm quý bà Hôi Nách cho đến
khi máy bay hạ cánh. Tất cả những phiền nhiễu đó chẳng là gì khi tôi nhận được
câu trả lời từ con em khi tôi hỏi Má ra
sao, nó khóc “Elle est partie!” Tôi gào lên giữa đám đông nhộn nhịp kẻ đón người
đưa ngoài phi trường. Mãi mãi tôi không thể nào quên được câu trả lời của
nó. Hơn 10 tiếng đồng hồ từ đại lục này
sang đại lục khác, tôi đã thầm khấn vái hàng nghìn lần, rằng để cho khi tôi gặp
lại Má, Má sẽ cười bảo tôi “Mày khéo lo, chạy vội về làm gì, Má đâu có sao”.
Chuyện ấy đã chẳng thành sự thật để cho ngày hôm nay, khi nghĩ đến, tôi vẫn
không thể hiểu nổi và rồi tôi mất niềm tin hoàn toàn vào tất cả các đấng Thượng
Đế trên đời này vì đã chẳng có ai chịu nghe những lời cầu nguyện duy nhất trong
đời của tôi. Chẳng đấng toàn năng nào đoái hoài đến những lời xin xỏ duy nhất
trong đời của tôi.
Ba
ra đi, phần nào trong tôi đã được chuẩn bị từ trước, nhưng vẫn hụt hẫng. Nửa
đêm nghe tin, tôi xuống nhà mở computer, lập cập tìm hình Ba trong những năm những
tháng gia đình còn đầy đủ, khóc không thành tiếng. Rồi tôi run lẩy bẩy không biết
phải bày bàn thờ thế nào. Tôi thức trắng phần đêm còn lại trong nỗi đau quá xa
lạ, quá mãnh liệt. Trước khi về Bỉ, tôi thắp nén nhang đầu tiên cho Ba, nhỏ những
giọt nước mắt ngắn dài vì nỗi chia lìa lớn lao nhất và đầu tiên nhất trong đời
mình. Lên máy bay, tôi tự nhủ “Ba ơi con
đã về không kịp rồi!”
Má
ra đi, tôi không chuẩn bị trước nên có cảm tưởng như đó là một cú lừa lớn nhất
trong đời tôi. Để cho mãi đến tận bao giờ tôi vẫn tự hỏi tại sao, tại sao lại
chia lìa bất đắc kỳ tử đến vậy? Mới trước đó vài ngày, tôi gọi điện cho bà, bà
còn bảo tôi “Sóng thần ở Nhật đấy, mày có xem không? Gớm, giết chết cả ngàn người,
sao lại ác thế không biết”. Mấy ngày sau, tôi khóc thầm “Má không còn nữa, sao
lại ác thế không biết hả trời”. Lần này, tôi cũng về không kịp. Thêm một điều nữa
cho tôi căm ghét khi mình ở rất nhà, là cỡ nào chăng nữa, mình vẫn luôn luôn chậm
trễ.
Hoa
lựu đã nở bao nhiêu năm rồi, từ cái dạo tôi nhìn hoa và liên hệ nó với những mất
mát trong đời mình. Người ta bảo thời gian là thuốc chữa cho mọi nỗi đau. Có thể
thế, ngoại trừ nỗi đau mất cha rồi mất mẹ. Nỗi đau của một đứa con tự dưng
không còn ai để mà gọi Ba hay gọi Má nữa. Của đứa con khi hoa nở là bắt đầu ngồi
viết xuống phải nấu gì, phải mua gì để làm giỗ cho Ba Má mình. Của đứa con khi
thắp nhang mời Ba Má về ăn cỗ, không khỏi chạnh lòng, trời ơi đã chừng ấy năm rồi
đó sao. Của đứa con mãi đến tận bây giờ
không nghe nổi hết bài hát Bông Hồng Cài Áo mà nước mắt không ngập ngừng.
Và
nỗi buồn của đứa con, của tôi bị nhân đôi, mỗi khi hoa lựu đỏ góc vườn.
Lan
Hương
Fort
Worth, 05/06/2016
No comments:
Post a Comment