Dạo
cuối tháng 12, chúng tôi có dịp đến thăm một thành phố nhỏ nằm ven biển miền
nam của Tây Bân Nha. Xa những xô bồ của khối lượng du khách thường đổ đến miền
Andalousie này, thành phố khiêm nhượng nép mình bên sườn đồi thoai thoải đổ ra
biển và biển hôm ấy thật trong xanh màu da trời, như trong những tấm ảnh carte
postale mà khi nhìn thấy chỉ muốn nhảy lên một chuyến máy bay và bay ngay đến tận
nơi.
Những
ngôi nhà nho nhỏ xinh xinh với mái ngói đỏ và tường quét vôi trắng toát nằm
dọc đường đi, nổi bật trên nền đá màu xám của núi đồi và màu xanh của biển
cả . Đó là NERJA , thành phố Trắng và cũng được mệnh danh là Bao Lơn
của Châu Âu nhờ một mỏm đá cao nhô ra trên măt nước. Đứng ở đây mà
ngắm biến Địa Trung Hải đẹp phải biết như một bức tranh vẽ, biển xanh,
núi xám , nhà trắng , hòa quyện nhau đến thật tài tình.
Sau
đó chúng tôi vào trong phố đi dạo qua những con đường nhỏ hẹp ngoằn ngoèo
với tiếng nhạc Giáng Sinh vang vọng bên tai và các hàng quán sặc sỡ
bán những món hàng đặc sản của vùng này, nhất là những
món đồ gốm thủ công, bát đĩa chai lọ, với những hoa văn rất đẹp, nhưng
giá cả thì như ở trên trời!
Sau
đó tình cờ quẹo vào một con phố nhỏ ít người qua lại , tôi chợt sững người
vì ở trên đầu là một giàn hoa pháo màu cam rực rỡ dăng từ bên này sang
bên kia của con đường. Bất ngờ đến thế là vì từ dạo rời bỏ quê hương và
Dalat đến định cư ở Bỉ, dễ cũng hơn 25 năm, tôi chưa từng thấy lại giống hoa
này, mặc dù cũng đã bôn ba nhiều nơi nhiều chốn rồi. Hoa từng chùm màu cam
rất đậm , hình nhọn như những chùm tia nắng tỏa ra. Ở Dalat khi
xưa hoa này mọc rất nhiều, được trồng quanh hàng rào những ngôi biệt thự
hoặc bám lên vách và phủ kín một mặt tường, chỉ chừa ra những khung
cửa sổ , đứng ngoài nhìn vào hết sức là huyền bí và kêu gọi bao nhiêu trí
tưởng tượng và óc tò mò của bọn trẻ con ngày ấy .
Đi
thêm mấy bước nữa chúng tôi lại thấy những giàn hoa pháo ở khắp nơi, cũng bên
hàng rào nhà người ta, làm thành từng tấm thảm màu cam rực lên trong ánh nắng
trong vàng của một ngày cuối năm. Hình ảnh của hoa pháo vô tình lại đưa tôi về
với kỷ niệm, của Dalat với thời thơ ấu xa xưa, nhưng nhất là gợi cho tôi nhớ về
Ba. Ba đã gắn liền với hình ảnh của hoa pháo, không phải vì Ba rất yêu thích loại
hoa này mà vì nó gắn với một kỷ niệm khó quên. Số là thời đó chúng tôi rất
mê các loại hoa thấy trong vườn nhà người ta, và thường thì nhất quyết tìm cách
mang về trồng trong vườn nhà mình. Hoa pháo cũng thế.
Chúng
tôi đã đánh được một cây về trồng ở vườn trước nhà, khi nó còn nhỏ thì chẳng
ai để ý, khi nó đă lớn và vươn những dây leo mềm mại không biết bám
vào đâu thì chúng tôi quyết định cho nó leo lên vách tường của căn nhà,
phía bên gốc cây đào và từ đó sẽ bò ra cái lan can ở lầu một . Cứ tưởng
tượng mình sẽ có một giàn hoa pháo rực rỡ trên lan can nhà mà đã sướng mê
đi được! Thế là nhân lúc Ba đi Saigon cất hàng, ở nhà chúng tôi đã làm dây
cho hoa leo lên của sổ và đến tận lan can trên lầu. Đến khi cây lớn dần, bắt đầu
leo bám vào dây và bò đến tân vách tường nhà thì một ngày kia Ba tôi chợt nhìn
thấy nó. Thế là thế nào! Sao lại để nó leo vào nhà thế kia, có ngày sập cả nhà!
Làm sao mà những đám hoa nhỏ bé thế kia mà có thể kéo sập được ngôi nhà 2 tầng!
Nhưng mặc kệ , Ba là người rất nguyên tắc , không thể để một cái gì đi ra ngoài
cái kỷ luật của Ba. Thế là trong một buổi chiều Ba đã ra tay chặt hết cây
hoa pháo của chúng tôi, trước những con mắt đau khổ và tiếc nuối của lũ trẻ. Và
hình ảnh này cứ như in vào tâm não tôi. Nay chợt thấy lại hoa pháo ngày xưa,
tôi không khỏi nhớ tới Ba, người đã ra đi đến nay đã 9 năm .
Ba
vốn là người thầm lặng ít nói, những tình cảm của Ba chẳng nói với ai, nhưng
Ba đã chịu khó ghi lại trong sách vở. Hồi còn bé tôi đã từng leo lên
nóc cái tủ quần áo to đùng trong phòng ba má để đọc những dòng nhật ký của
Ba ghi lại trong một cuốn sổ rất to. Khi đó còn quá nhỏ tôi không cách nào rinh
cuốn sổ đó xuống được nên đành ngồi luôn trên đó mà đọc. Những đoạn đời Ba ghi
lại là thời Ba còn ở ngoài Bắc, một thế giới hoàn toàn xa lạ với chúng tôi
nên cũng không lấy gì làm quan tâm lắm và đến nay thì đã hoàn toàn quên sạch!
Khi ổn định cuộc sống ở Dalat, Ba không còn viết nhật ký nữa. Với một đàn con 7
đứa, Ba Má đã chật vật bươn chải để nuôi dậy chúng tôi và cho chúng tôi có được
ngày hôm nay.
Lúc
phải quyết định rời bỏ Dalat, rời bỏ quê hương để đến một bến bờ hoàn toàn xa lạ chắc
hẳn Ba Má đă đắn đo suy nghĩ nhiều lắm. Ba Má chắc đã phải đau đớn nhìn lại cơ
ngơi Ba Má đã tạo dựng lên từ hai bàn tay trắng, căn nhà số 7, lúc một tầng rồi
đến hai tầng, rồi cửa hàng Nhật Tân. Bao nhiêu công sức và nghị lực gây dựng từng
ngày, thế mà bỗng chốc phải bỏ hết mà đi, nghĩ lại mới thấy sự hy sinh của
Ba Má mới to lớn dường nào, ra đi để cho các con các cháu có tương lai,
có được như ngày hôm nay.
Sang
đến xứ sở định cư này, vô hình chung Ba Má cũng đã bị gạt ra bên lề của cuộc
sống, ở đây Ba Má không còn thi thố được tài năng gây dựng cơ đồ nữa, đến phiên
các con lăn xả vào cuộc sống mới và mỗi đứa tư lo cho bản thân và gia đình
riêng của mình. Nhưng không biết Ba Má lúc đó có biết không, là Ba Má đã
là một chỗ dựa tinh thần lớn lao nhất cho các con. Làm gì thì làm, mỗi cuối
tuần phải về tề tựu đầy đủ ở nhà Ba Má, như thể tìm về một tổ ấm để được an ủi
nuông chiều như thuở còn bé thơ. Ba Má như là một cái nóc nhà vững
chãi mà mỗi đứa con, ngay cả khi đã đi xa cũng cần phải có. Giai đoạn
này Ba lại trở về với việc viết lách. Từ năm 90 Ba bắt đầu làm thơ, những bài
thơ phản ảnh tâm tư của Ba, nỗi nhớ nhà triền miên, nhớ quê hương nay đã xa tắp
biền biệt. Sau này khi Ba đã mất rồi chúng tôi mới có dịp đọc lại những bài thơ,
những bút tích của Ba, với nét chữ thẳng tắp, đều đặn, chữ Ba viết rất đẹp, những
cuốn sổ này tôi vẫn còn cất giữ mãi :
Chạnh
lòng buồn nhớ quê hương ,
Muốn
về quê mẹ nhưng đường thì xa ,
Lang
thang những buổi chiều tà ,
Đường
trần cất bước chân già lê thê .
Chúng
tôi cũng thu xếp cho Ba Má về thăm lại quê hương năm 1998 Ba Má về Dalat,
về quê miền Bắc, được cả làng ra đón, chắc Ba Má cũng chẳng còn nhớ ai với
ai, nhưng cũng là mãn nguyện rồi, cho bớt những ray rứt trong lòng kẻ
đã phải cắt đứt những dây mơ rễ má để ra đi. Sau đó thì Ba không còn muốn
về thăm quê nữa, có hỏi Ba có muốn về nữa không thì Ba chỉ im lặng lắc đầu: về
làm gì?
Ba
cũng là người thích thiên nhiên, thích phong cảnh , chỗ nào đẹp , dẫn Ba đến
xem Ba cũng rất thích , những công viên mùa hoa nở nào chúng tôi cũng dẫn Ba đến
nơi từ Huizingen đến Keukenhof, Ba đều tỏ vẻ thích thú, và rất thích chụp
hình, chỉ cần nói Ba đứng đây cho con chụp là Ba sẽ đứng vào vị trí ngay
không cần phải năn nỉ như Má, và Ba chỉ có một một dáng đứng từ bao
nhiêu năm không thay đổi, từ ngày Ba đứng chụp hình trước của tiệm Nhật Tân những
năm 60 cho đến những năm cuối đời, vẫn dáng đứng nghiêng, chân trước chân
sau, vẻ mặt nghiêm nghị không bao giờ cười! Đố ai bảo được Ba cười để chụp
hình! Ba cũng rất thích hoa, chảng thế mà Ba đã rắp tâm đặt tên cho một những
cô con gái là Hoa , nhưng đã bị Má gạt đi! Ba thích nhất là hoa hồng màu đỏ, lần
dẫn Ba đi vườn hoa hồng Coloma, Ba cũng phải tấm tắc khen và đòi chụp
hình với những đóa hoa hồng to nhất màu đỏ thắm .
Nhưng
những chỗ Ba đã đi rồi Ba sẽ không trở lai nữa, đi rồi, biết rồi , ngoại
trừ khu rừng Halle. Đúng vậy đây là một ngoại lệ. Cũng như chúng tôi, Ba
Má cũng rất gắn bó với rừng Halle, nó ở gần nhà, chẳng phải đi đâu xa thoắt một
cái là đến nơi và đến đây là cả một trời thần tiên mở ra không bút nào tả
siết. Lần đầu tiên Ba Má không ngớt suýt xoa, sao mà đẹp thế, sao mà
hoa nhiều thế, không biết bao nhiêu hình đã được chụp ở đây, chụp chung, chụp
riêng, chụp cả nhà!
Nhưng
có lẽ Ba Má không thích màu hoa tím rừng Halle bằng mùa hạt dẻ. Phải, mùa hạt dẻ
rơi rụng là mùa mà cả Ba lẫn Má đều hân hoan đón chờ vào rừng đi lượm. Mải
mê thu hoạch, có đến cả mấy chục ký mà bảo thôi thì không ai chịu ngưng tay hết.
Lần cuối cùng Ba đến rừng Halle để lượm hạt dẻ, tôi còn nhớ, Ba đã yếu đi nhiều,
không còn đi xa được nữa, chúng tôi cũng không dám đi nhiều, và để Ba
đến ngồi trong căn lều ở bờ rừng và tôi vẫn còn nhớ như in
hình ảnh của Ba trong chiếc áo bành tô ngồi nghỉ trên một gốc
cây ở đây, mắt nhìn mông lung vào rừng, hơi thở dồn dập vì mệt. Hỏi
Ba có muốn về không thì Ba bảo không, để Ba nghỉ một tí thôi. Sau đó thì
Ba ngã bệnh và hơn 6 tháng cuối của cuộc đời Ba không còn dịp nào trở lại
rừng Halle nữa.
Sắp
đến ngày giỗ của Ba, bồi hồi nhớ về Ba với những kỷ niệm xa gần, tôi cố ghi lại
vài dòng, sợ rằng sau này có khi mình sẽ bị bệnh lãng quên và không còn
ghi lại được nữa. Thói quen viết lách này cũng thừa hưởng từ Ba, người văn
hay chữ tốt nhất họ và nhất làng Thượng ngày nào.
Trên
bàn thờ Ba sẽ có hoa đỏ, màu Ba thích nhất, có còn nhớ chiếc cà vạt đỏ của Ba
luôn hiện diện trong những tấm hình chụp không? Còn món ăn Ba ưa thích ư? Có lẽ
món cơm với đường chăng? Tôi chỉ biết chắc là Ba ghét nhất món
trứng dưới mọi hình thức, từ bún riêu đến trứng chiên, trứng nguậy. Vậy chớ có
mà để món gì có trứng trên bàn thờ Ba đấy nhé!
Căn lều ở rừng Halle, nơi Ba ngồi nghỉ lần cuối cùng đi thăm rừng |
Ngày
7 tháng 5 năm 2015 (ngày giỗ Ba)
TỐ MAI
le bois de Halle! Oui...un matin tot au mois de mai, je me suis promene la bas pour faire les photos des champs de fleurs, et Mai m a telephone... c est ainsi qu une tranche de ma vie est perdue. Aujourd hui, seul dans une ville sans ame, je me souviens de rare moments partages avec papa et maman, larmes aux yeux.
ReplyDeleteQui.