Pages

Tuesday, December 22, 2015

Cậu Hoàng Con


Lúc ấy tôi khoảng tám hay chín tuổi, tôi vớ lấy quyển sách Cậu Hoàng Con trên tủ, mừng vì sách không dày lắm và chữ in khá to, rõ ràng. Ngỡ là truyện cổ tích, tôi háo hức mở ra xem nhưng rồi thất vọng ngay. Hình vẽ thì xấu òm, truyện không đầu không đuôi, mà cái chính là chẳng có hoàng tử đeo kiếm oai phong trên lưng ngựa, không có công chúa với áo đầm xòe chấm đất, chẳng lâu đài lộng lẫy, không có mụ phù thủy mũi khoằm gớm ghiếc nào cả. Chỉ độc hình một cậu bé tóc vàng, quấn khăn phu la, nhỏ bé và lạc lõng đến tội nghiệp. Còn cốt truyện thì toàn rặt những chuyện trời ơi gì đâu, tôi đọc chữ được chữ mất. Tôi không hình dung ra được một hành tinh có ba ngọn núi lửa mà nhân vật chính trong truyện có thể chùi rửa chúng mỗi ngày để chúng không ám khói, rồi cậu lại còn đổ ốp la trên miệng ngọn núi lửa, pha cà phê trên miệng ngọn núi lửa khác, cứ đơn giản như cái bếp ba lò của nhà cậu vậy. Núi lửa phải to đùng, phải nhả nham thạch cuồn cuộn, bụi than mù mịt trời đất, hễ bắt đầu nhả khói phì phì thì dân cư chung quanh chạy trối chết, cứ nhìn ngọn Etna đang phun lửa bây giờ mà xem! Lật thêm vài trang, tôi nhìn hình vẽ Ông Vua với hai tà áo của ông ôm chầm lấy gần hết hành tinh mà chợt ngán ngẩm, trong đầu thắc mắc vậy thì nhà cửa xây ở đâu, đường xá cho xe cộ sao không thấy, rồi cây cối mọc chỗ nào? Riêng người Thắp Đèn làm tôi phát ớn. Tôi tự nhủ ông ta đi ngủ vào cái lúc nào, ăn uống vào cái lúc nào nếu ông ấy cứ thắp rồi tắt đèn liền liền mỗi phút như thế? Tôi đọc được chăng hay chớ, đầu óc toàn những thắc mắc rất thiết thực. Exupéry bảo quyển sách này viết cho trẻ con nhưng tôi nghĩ trẻ con như tôi còn xơi mới hiểu được ông ấy muốn kể chuyện gì. Rồi mặc cho ông ấy phân trần mãi là ông không biết vẽ, tôi vẫn không chấp nhận được hình một cái hành tinh bị ba cây bao bắp làm cho sắp nổ tung ra. Mò mẫm đến đoạn Cậu Hoàng Con vào vườn hoa hồng thì tôi xin đủ, tôi xếp quyển sách lại cất vào tủ và quên hẳn nó, hoặc nếu có phải lựa chọn sách để đọc, tôi tránh nó sang một bên.

Khoảng những năm mười hai, mười ba tuổi, tôi khát truyện. Bao nhiêu sách trong nhà không đủ cho tôi, tôi đã từng phải mở tự điển ra đọc, say mê Petite Larousse với các trang in hình màu các loại nấm độc, rồi hình các loại hoa mà tôi nhận ra được vài thứ. Tôi mò đến đống sách y khoa thì chỉ biết nhìn hình, sau cùng tôi vớ luôn cuốn Kinh Thánh không biết tại sao có ở trong nhà, đọc một mạch, thắc mắc chỗ này chỗ nọ, nhưng chẳng phải đạo của mình, tôi cho qua. Và rồi một hôm tay tôi chạm đến cuốn Cậu Hoàng Con. Tôi lôi nó ra khỏi giá sách và mở ra xem.

Lần này bức hình vẽ con trăn đang tiêu hóa một con voi làm không làm cho tôi chê ỏng chê eo nữa mà tôi thật sự buồn cười. Tại sao không ai nhìn ra có cái gì bên trong bụng con trăn, phải đợi đến khi tác giả vẽ huỵch toẹt một con voi đang đứng lừng lững và đặt tên là “trăn đóng” “trăn mở” cho hai bức hình của mình thì mới ồ à lên? Tôi chấp nhận ba ngọn núi lửa của Cậu Hoàng Con một cách dễ dàng hơn, nhưng vẫn không hiểu nổi tại sao cậu lại phải cố chiều Đóa Hoa Hồng đỏng đảnh ương ngạnh của cậu, phải tay tôi, tôi đã nhổ béng cô nàng lên từ đời nào. Tôi không hiểu điều này cho lắm chỉ vì lúc đó tôi chưa hề bỏ nhiều thời gian của mình cho bất cứ một ai, bất cứ cái gì để nó hoặc họ trở nên vô cùng quan trọng đối với tôi, để cho mỗi khi đi xa, tôi băn khoăn không biết nó hay họ đang vui hay buồn, rồi lòng quay quắt mãi khôn nguôi. Cũng như chính tác giả thú nhận, tôi không hiểu làm sao một người có thể sống trong sa mạc chỉ với một chút nước và một chút mặt trời, riêng đối với một cậu bé mỏng manh như thế, chuyện đó lại càng không tưởng. Tôi đã vui thích hơn khi biết  cậu du hành từ hành tinh này sang hành tinh khác cùng với đàn chim di. Chuyện cậu bay theo đàn chim nghe thật thú vị và chính cậu đã nhận xét “Với cái máy bay ấy, nó chẳng mang mình đi đâu xa được”. Tôi đã phì cười khi cậu bảo hình con cừu được vẽ hẳn hoi trông già quá, cậu cần một con khác nhỏ hơn, và cậu hả hê với hình cái hộp có ba cái lỗ, cậu nhìn vào bảo đó chính là con cừu cậu muốn và nó đang ngủ. Óc tưởng tượng của tôi tốt hơn lần trước, tôi đã có thể thấy được con cừu của cậu nằm ngoan ngoãn trong ấy. Lần này tôi đã đọc đến trang chót của quyển sách, nhưng tôi ấm ức mãi vì đoạn cuối khi cậu gặp Con Rắn. Cậu đến trái đất này bằng đàn chim trời, tại sao cậu không thể trở về hành tinh của cậu cùng với những con chim đó? Tại sao lại để con rắn tuy làm cậu sợ nhưng cậu vẫn phải chọn nó để nó đưa cậu về với đóa hoa hồng của cậu? Tôi bất mãn với Exupéry. Tôi không chấp nhận cậu đã để cho con rắn cắn. Truyện cho con nít gì mà buồn thảm quá…Thế rồi tôi lại xếp quyển sách cất vào trong tủ. Tôi vẫn chưa cảm được hết vẻ đẹp của Cậu Hoàng Con. Tôi vẫn chưa hiểu thấu đáo làm sao nhìn thấy những chùm sao và nghe chúng cười.  
Lần đọc tiếp theo, tôi đã lớn hơn, hiểu biết nhiều hơn. Tôi đã biết Cậu Hoàng Con muốn nói gì khi cậu luôn bảo “Người lớn thật là kỳ cục!” Đã là người lớn theo một ý nghĩa nào đó, tôi thông cảm với cậu khi trên trái đất này có những loại người mà thế giới của trẻ em không dễ dàng chấp nhận được. Thế giới người lớn với những mâu thuẫn luẩn quẩn của nó mà một đứa trẻ như cậu không tài nào hiểu nổi, những người không thèm đi làm nên chán đời rồi lại chán đời vì không đi làm, cũng như vì chán đời nên uống rượu, rượu vào lại chán đời!  Hay những người chỉ thích nghe người khác xưng tụng mình, những người chỉ tuân theo lề lối của điều lệnh mà không hề thắc mắc tại sao phải làm như vậy. Cậu lạc lối trong cái vòng tròn không lối thoát ấy, rồi thốt lên “Người lớn thật lạ lùng!”. Cậu đã đi qua biết bao nhiêu hành tinh và một hôm cậu đến trái đất. Cậu đã gặp cả một vườn hoa hồng nhưng không tìm thấy đóa hoa của riêng mình, cậu nằm xuống cỏ và khóc.
Cho đến một hôm cậu gặp con chồn:
Đời tớ tẻ nhạt. Tớ săn gà, người săn tớ. Tất cả loài gà đều giống nhau, và tất cả loài người đều giống nhau. Vì thế, tớ hơi chán. Nhưng nếu cậu cảm hóa tớ, coi như cậu đã chiếu sáng đời tớ. Tớ sẽ nhận ra một bước chân khác hẳn mọi bước chân khác. Các bước chân khác sẽ làm cho tớ chui ngay xuống đất. Nhưng bước chân của cậu lại sẽ gọi tớ từ hang chạy ra, như là một điệu nhạc. Và cậu hãy nhìn kia! Cậu thấy không, ở kia, những đồng lúa mì ấy? Tớ không ăn bánh mì. Lúa mì đối với tớ là vô dụng. Các cánh đồng lúa mì đối với tớ chẳng có gì gợi nhớ cả. Cái đó buồn lắm. Nhưng cậu có mái tóc màu vàng kim. Thế thì sẽ rất tuyệt một khi cậu cảm hoá tớ! Màu vàng kim lúa mì sẽ gợi cho tớ kỷ niệm về cậu. Và tớ sẽ yêu tiếng gió reo trong lúa mì...”

Đến lúc cậu phải chia tay với con chồn, cậu bảo: “Mình chẳng muốn làm cậu khóc! Cậu chẳng được gì cả!” Con chồn đáp “Có chứ, màu vàng của lúa mì ấy!”
Mẩu đối thoại tuyệt vời này đã đi theo tôi qua biết bao nhiêu năm tháng, đến tận bây giờ, thi vị như một bài thơ. Và từ đó tôi biết Cậu Hoàng Con là một trong những cuốn sách yêu thích nhất của tôi. Khi con tôi lên mười, tôi mua cuốn sách cho thằng nhỏ đọc. Sau một buổi chiều, nó đưa sách trả lại tôi rồi nói  “Truyện này hơi lạ nhưng mà hay.”  

Cuối hè vừa rồi, nó dọn phòng gọn gàng sạch sẽ đi vào ký túc xá. Nó lựa những quyển sách không đọc để sang một bên cho tôi đem tặng thư viện, cầm cuốn The Little Prince lên, nó bảo tôi “Mẹ giữ lại cuốn này cho con”. Tôi không nói gì, tôi mong con mình cảm được cuốn sách như tôi đã từng. Và khi nó lớn lên, tôi muốn nó hiểu ít nhất một điều khuyên mà cuốn sách mang lại cho đời sống thực sự của mỗi người:  “Người ta chỉ nhìn thấy thật rõ ràng bằng trái tim. Điều cốt yếu vô hình với con mắt”.

Bao nhiêu triết học lớn nhỏ trên đời, theo tôi, đã gói gọn ghẽ trong cuốn sách này, một cách đơn giản nhất, tinh tế nhất. Người đọc sẽ lôi ra được vô khối những điều đương nhiên trước mắt nhưng chẳng ai thấy. Chẳng đi đâu cho xa, hiểu được câu chuyện cảm hóa giữa cậu bé với con chồn đã đủ làm cho tâm hồn người ta cao đẹp đến thế nào. Tình  yêu của cậu với đóa hoa hồng như một ánh sao thắp sáng cho đời sống hàng ngày tưởng như vô vị. Như cậu triết lý “Mọi cái cây xấu hay tốt đều bắt đầu bằng một hạt mầm”. Và cậu chăm chỉ thu dọn hành tinh của cậu để bọn bao bắp không lấn chiếm. Cậu bảo “Đó là một việc làm chán lắm, nhưng mà thật dễ”. Cậu sợ nếu sao lãng, bọn bao bắp sẽ làm nổ tung hành tinh của cậu. Cứ thử ngẫm nghĩ mà xem, trong đời sống hàng ngày của mình, nếu sơ sảy một tí, mình sẽ bị nổ tanh bành vì một hạt mầm xấu đã không được nhổ ngay tắp lự!

Và như cậu, tôi đã có đóa hoa hồng riêng của chính tôi, để rồi quay quắt, để rồi lo lắng, để rồi nhớ nhung. Để cho đóa hoa trở thành quan trọng khi tôi đã bỏ không biết bao nhiêu thời gian cho nó. Để cho đóa hoa thành độc nhất vô nhị. Để cho giữa một vườn hồng ngát hương, tôi buông tiếng thở dài không tìm được đóa hoa của mình, như Cậu Hoàng Con. Tôi tin rằng trong mỗi người chúng ta, ai cũng có riêng một đóa hoa của mình nếu có một lúc nào đó trong đời, mình đã bỏ công sức, thời gian chăm chút nó, làm cho nó trở thành quan trọng và độc nhất vô nhị.

Cuối tuần rồi tôi lái xe một mình năm tiếng xuống Houston, nghe theo tiếng gọi của vở Opera The Little Prince. Nghĩ đến đoạn đường cộng với cái project mới toanh, tôi đã muốn bỏ cuộc, nhưng rồi tôi vẫn quyết chí ra đi trong khi những người quanh tôi bảo tôi có điên không. Hơn hai tiếng với Cậu Hoàng Con thật không uổng phí. Tôi lái xe về lại Fort Worth, highway 45 ùn tắc xe cộ, trời đã nhập nhoạng tối, nhưng tim tôi vẫn còn bồi hồi khi nghe cậu thủ thỉ “Tôi không mang nổi cái thân xác này. Nặng lắm” Rồi cậu nói tiếp “Nhưng nó cũng sẽ chỉ như một cái vỏ bỏ lại mà thôi. Những cái vỏ thì có gì đáng buồn…”. Lần này tôi không cãi với Exupéry nữa. Đoạn kết của ông quá tuyệt vời!  Đúng thế, cần gì phải than khóc những cái vỏ, những thứ bên trong cái vỏ ấy mới là điều đáng kể, những thứ không nhìn thấy qua cái vỏ ấy mới làm mình thổn thức. Và nếu mình yêu chúng thì chúng đã ở trong tim mình rồi.

Cậu về lại hành tinh của cậu và để lại muôn vàn tiếng cười như chuông của cậu, làm cho mỗi vì sao ngân nga vì tiếng cười của cậu.

“ - Mọi người có những ngôi sao không của ai giống ai. Đối với một số ưa thích đi xa, các ngôi sao là những kẻ dẫn đường. Đối với số khác, chúng chỉ là những đốm sáng nhỏ. Đối với những nhà bác học, chúng là những bài toán. Đối với nhà doanh nghiệp, chúng là vàng. Nhưng tất cả loại ngôi sao ấy đều câm lặng. Ông, ông sẽ có những ngôi sao trước đây không ai có...

-       Em muốn nói sao?

-       Khi ông nhìn trời, ban đêm, bởi vì ở một trong những ngôi sao đó có tôi ở, bởi vì tôi cười trên một trong những ngôi sao đó, cho nên đối với ông tưởng chừng như tất cả các ngôi sao đều cười. Ông, ông sẽ có được những ngôi sao biết cười.

Rồi cậu lại cười nữa.
- Xem như tôi đã tặng ông, thay vì những ngôi sao, hàng đống những cái chuông nhỏ biết cười...”

Thỉnh thoảng tôi nhìn lên trời đêm và tôi đã thấy khi một ngôi sao cười sẽ như thế nào.Bởi vì tôi biết những người thân yêu của tôi, những người đã để cái vỏ bọc nặng nề ở lại, đang ở trên các ngôi sao đó, làm cho chúng lấp lánh và ngân nga.

Những khi có dịp ngắm hoàng hôn, tôi thường nhớ Cậu Hoàng Con đã từng bảo mỗi khi cậu buồn cậu đều bắc ghế ngồi ngắm mặt trời lặn, có hôm cậu nhìn tới 43 lần. Ngày hôm đó hẳn là cậu rất buồn. Trong chuyến du hành của mình, có lần cậu tiếc không được ở cùng hành tinh với người Thắp Đèn, là vì nó có đến một nghìn bốn trăm bốn mươi lần mặt trời lặn trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ! Nhưng mà nó bé quá, không đủ chỗ cho hai người. Cậu tiếc nuối ra đi và rồi cậu trèo lên ngọn núi cao ngất, la lớn “Tôi cô đơn quá!”. Đó là trước khi cậu gặp con chồn, hay trước khi cậu được đưa tới giếng nước với cái ròng rọc kêu róc rách. Hay nói cách khác, trước khi cậu tìm được một người bạn.

Riêng tôi, có đôi lúc tôi ước gì mình có thể được ngắm hoàng hôn 43 lần trong một ngày. Như Cậu Hoàng Con. Vào cái hôm Ba rồi Má mất…

Cám ơn Exupéry vì đã để lại một tác phẩm đi theo tôi từ hồi còn nhỏ đến tận bây giờ. Để lại cho tôi những dòng chữ mà mỗi khi đọc đến, tim tôi vẫn thổn thức:
“Cảnh ấy đối với tôi, là cảnh đẹp nhất và buồn nhất trên thế gian. Nó cũng là cái cảnh ở trang trước, nhưng tôi đã vẽ một lần nữa để bạn nhìn rõ hơn. Chính tại nơi đây cậu hoàng con đã xuất hiện trên Trái Đất, rồi lại biến đi.
Hãy nhìn chăm chú cảnh này cho đến khi bạn chắc chắn rằng bạn có thể nhận ra nó, nếu ngày kia bạn du hành sang châu Phi, trong sa mạc. Và nếu bạn tình cờ đi ngang qua đó, tôi xin bạn, xin bạn đừng vội, hãy nán lại một chút ngay dưới ngôi sao! Nếu bấy giờ có một đứa bé đến bên bạn, nếu cậu cười, nếu cậu có mái tóc vàng óng, nếu cậu không trả lời khi người ta hỏi, bạn sẽ đoán ra đấy là ai. Bấy giờ bạn hãy thương tôi! Đừng để tôi buồn quá thế này: hãy viết thư cho tôi báo rằng cậu đã trở lại…”

 


Lan Hương

Fort Worth 12/18/2015

Thursday, December 17, 2015

Dementia - Nữ thần Lãng Quên

Trí nhớ cứ chuội dần trong đầu óc của bà. Bà ngập ngừng rồi cáu gắt tìm từ ngữ  để nói, một cách khổ sở, tuyệt vọng. Mất cả vài phút để bà lập bập tìm đúng tên người, tên đường. Thường thì bà chịu thua, riêng tôi ráng đoán xem bà đang nói đến ai, đến chỗ nào, gợi ý dăm bảy cái tên, cái nào bà cũng lắc đầu quầy quậy, không phải, không phải. Chủ nhật vừa rồi đến thăm tôi, có mỗi một câu chuyện gia đình chồng bà có năm ông con trai, không mống con gái nào mà bà nhắc đi nhắc lại khoảng 4, 5 lần trong vòng nửa tiếng đồng hồ. Đã được ông chồng báo trước, tôi ngồi yên lắng nghe bà nói và thấy buồn khôn tả.

Dementia trong truyện cổ Hy Lạp là vị nữ thần nanh ác, nàng hà hơi thổi nhẹ vào mặt người đối diện một màn sương khói mỏng làm nạn nhân lơ mơ và chìm đắm trong giấc ngủ. Thế rồi nàng bắt đầu nhẩn nha cắp trí nhớ của họ, dần dần, từng tí một. Để làm gì thì không thấy nói, nhưng nàng cứ lượn lờ, vo ve quanh người bệnh, lẳng lặng lấy đi một mảnh trí nhớ ở đây, ở kia, thong thả, từ tốn, ngày này sang ngày khác. Người bệnh ngày hôm trước minh mẫn, ngày hôm sau tìm một từ đơn giản để nói cũng không ra. Những từ ngữ dần dần biến mất. Những hình ảnh dần dần biến mất. Những sự kiện dần dần biến mất. Những khuôn mặt thân quen dần dần biến mất. Nàng quyết tâm xóa sạch trí nhớ của nạn nhân, nhưng thường thì người bệnh sẽ chết trước khi bộ não của mình được nàng vét váy sạch sẽ. Nàng Dementia kiều diễm có thể đến với bất kỳ một ai, bất cứ lúc nào, không một lời thông báo trước. Nhất là những cụ tuổi tác đã cao, hay lơ đễnh, không phòng ngừa, Dementia càng thích đến thăm viếng thường xuyên hơn. Ăn hiếp kẻ già yếu thất thế là ngón đòn chí tử của nàng. Vì thế đôi khi chợt thấy mình quấn lưỡi không tìm ra một từ, đầu óc bỗng chốc trống toác, phải ngoái ra sau xem nàng Dementia có đứng sau lưng cười ruồi hay không.

Nhớ cách đây vài năm, bà hốt hoảng bảo tôi “Bác sĩ bảo mẹ tôi bị bệnh mất trí nhớ, bây giờ bà ấy cứ lãng đãng, chẳng nhớ chẳng quên. Tôi đến khổ với bà. Thuốc đau tim hoặc uống quá liều hoặc không uống viên nào vì bà chẳng nhớ. Bữa ăn cũng vậy, lúc có lúc không. Rồi thì gọi điện thoại cho tôi kể toàn những chuyện xảy ra cách đây mấy chục năm trong khi chuyện vừa mới hôm qua thôi đã chẳng nhớ gì. Tôi đành phải đưa bà vào viện dưỡng lão. Mẹ tôi không thích, khóc lóc đòi ở với tôi nhưng tôi làm sao chăm sóc được bà đây? Tám tiếng một ngày, năm ngày một tuần, tôi đi làm việc như thế thì ngay cả đến bản thân tôi tôi cũng không lo được nữa là. Tôi chỉ lạy trời cho mình không bao giờ mắc phải căn bệnh này…” Mẹ của bà đã mất cách đây hai năm và lời cầu nguyện của bà xem ra không linh ứng vì nữ thần Dementia đã thổi một màn sương vào mặt bà mất rồi.

Cách đây khoảng mười năm bà còn sắc sảo lắm. Chuyện trời ơi đất hỡi trong sở tôi biết được toàn là từ do bà quan sát, hỏi han mà ra. Những chuyện ngồi lê đôi mách, ai ly dị ai, ai mới làm đám hỏi, ai mới sinh con, bà hăm hở nghe ngóng, từ tầng trên xuống tầng dưới, từ khu Kế Toán, ra khu Tài Chánh, đổi sang đám Nhân Sự, đảo sang bọn IT rồi bà hí hửng kể lại cho tôi. Nhất là khi nào có người bị cho thôi việc, bà bao giờ cũng nhấc điện thoại gọi cho tôi thông báo mặc dù chỉ dăm phút nữa chúng tôi sẽ ngồi chung xe đi về nhà. Tôi với bà đi xe chung với nhau hơn mười năm trời. Thỉnh thoảng tôi phải tự thán phục tính kiên nhẫn của mình. Nếu đến phiên tôi lái, quãng đường đi về chỉ khoảng 30 phút, kể cả kẹt xe. Nhưng tuần nào bà lái, chúng tôi phải mất đến 45 phút mới tới nơi. Vì tính bà vốn chậm chạp, từ tốn, chẳng đi đâu mà vội. Chưa kể, nếu vừa lái xe vừa nói chuyện, bà sẽ tự dưng lái chậm hẳn, mặc cho xe đàng sau bực tức vượt qua, tài xế liếc xéo muốn đứt con mắt, có đứa hung hăng hơn, còn tặng luôn cho một hồi kèn. Bà tỉnh bơ như không, bảo, tại sao nhân tình lại phải vội vàng đến thế để làm gì? Những hôm muốn về nhà sớm, tôi phải tự ngậm chặt miệng mình lại, không nói với bà một câu để cho bà chú tâm lái xe nhanh hơn. Hôm nào tôi lái, bà ngồi bên cạnh huyên thuyên bất tận với đủ mọi chuyện, như chim hót. Nhờ thế đường về có phần đỡ chán, đỡ dài. Có hôm câu chuyện vui quá, đến nhà rồi mà bà không xuống ngay, ngồi rán trên xe kể nốt mẩu chuyện rồi bà mới từ tốn mở cửa bước ra, đủng đỉnh, không vội chút nào.

Đi xe chung với bà, tôi biết tường tận gia đình bà, gia đình chồng bà. Một hôm bà buột miệng nói “Đến giờ phút này nó không tự tử mới là điều lạ!” Tôi đang mơ màng nhìn trời nhìn đất, vội giật mình vì nghe thấy có mùi chết chóc đâu đây. Thì ra hai vợ chồng có đứa con gái bị bệnh tự kỷ ám thị hay là tâm thần phân liệt gì đó. Nó đã học xong đại học, đã đi làm được mấy năm thì bỗng nhiên một hôm nó bỏ việc, tự ý về nhà ngồi chơi xơi nước. Nó bảo những người làm chung với nó toàn quân ác độc, ai cũng nhìn nó với đôi mắt hằm hằm, thiếu điều ăn tươi nuốt sống nó. Ông bà linh cảm có điều gì không đúng ở đây nhưng thôi kệ con, vì lúc ấy nó cũng đã hơn 25 tuổi rồi. Một hôm, nửa đêm nó đánh thức cả nhà dậy, bảo, sao nhà này nhìn đâu cũng thấy quỷ dữ và nó bắt đầu gào thét không ngừng. Nó nhìn ông bà như nhìn thấy ma, nó bảo nó thấy những bóng đen lượn lờ chung quanh mọi người, và những cái bóng đó nói chuyện với nó không ngớt làm đầu nó nhức nhối vô cùng. Ông bà thương nó không đem con vào những cơ sở tâm thần mà quyết tâm giữ nó bên mình, họ hy vọng với tình thương của cha mẹ, tình trạng của nó sẽ khấm khá hơn. Cho đến giờ phút này, bệnh tình nó không hề thuyên giảm mà trái lại, nó càng ngày càng lánh xa mọi người. Chỉ vì thuốc uống vào trị bệnh tâm thần lại làm cho nó tăng ký không ngừng. Thấy nó khệnh khạng đi trong nhà như một con voi, tôi lấy làm ái ngại giùm và cũng hiểu tại sao nó không muốn ló mặt ra ngoài đường. Bà kể một hôm nó liều mình đi  bộ ra cái park gần nhà. Được đúng 15 phút nó quay về, mặt đỏ gay, nước mắt nước mũi như mưa. Nó bảo nó gặp một lũ trẻ, vừa trông thấy nó, đám con nít ranh hỗn láo rú lên “Ô chào, Mập ơi!” Rồi có ra phố đi đây đi kia, người ta hay liếc nhìn nó, nửa kín đáo nửa tò mò nửa thương hại. Nó không chịu nổi những ánh nhìn ấy, thế là nó bế quan tỏa cảng, không ra khỏi nhà nữa. Ông bà loay hoay với nó suốt bao năm nay, buồn vui với tâm tính bất bình thường của con. Những lúc vui vẻ bà trả lời khi tôi hỏi thăm nó “Ồ, nó đã khá lắm rồi. Nó sụt được chừng này cân và nó bắt đầu nghĩ đến chuyện tìm việc làm bán thời gian rồi đó”. Được dăm bữa, bà nói với tôi như khóc “Chẳng biết phải làm gì với nó! Thuốc không chịu uống vì sợ mập. Mà không uống thuốc thì nửa đêm cứ đi lang thang trong nhà, không dám ngủ vì hễ chợp mắt là những tiếng nói xa lạ cứ ào ào trong tai. Mà nghĩ xem, tôi đã chừng này tuổi, ông nhà tôi chừng này tuổi, chúng tôi làm sao mà chăm sóc được nó mãi? Hôm nọ nửa đêm nó vùng dậy lái xe đi lung tung, may mà chồng tôi đã kịp cài cái GPS vào xe để theo dõi nó. Nó lái khoảng 2 tiếng đồng hồ thì gọi về nhà khóc lóc, bảo không biết đang ở đâu, chốn nào. Tôi đi đón nó mà đứt từng khúc ruột vì thương con mà chẳng làm gì được. Thôi cũng may nó không tông ai, chứ nghĩ đến chuyện đó tôi lại lạnh cả người!”

 Ông nghỉ hưu sớm trước bà cả năm sáu năm. Ông cũng là dân ngồi dán mắt vào computer suốt ngày như tôi, cặm cụi với programs, với software suốt cả đời. Một hôm ông chợt thấy mình chẳng hiểu đám trẻ chung quanh đang nói cái gì trong buổi họp nhóm, ông nghe mà ong ong trong đầu những thuật ngữ mới mẻ. Tất cả những gì ông có thể làm cho hãng là kinh nghiệm 30 năm trời làm việc của ông, chứ còn nói đến chuyện kỹ thuật, ông lạc lối, chẳng biết mô tê gì. Ông biết mình đã đến lúc thoái trào nhường ngôi cho bọn trẻ. Ông nghỉ ở nhà cũng muốn bà ở nhà để hai vợ chồng bắt đầu những chuyến giang hồ đây đó trên cái xe camper của họ. Niềm mơ ước này mãi đến năm vừa rồi họ mới thực hiện được vì bà không dám nghỉ hưu sớm. Ngày nào đi làm với tôi bà cũng tính còn bao nhiêu năm, nhiêu tháng nhiêu ngày bà có thể ở nhà. Tôi bảo “Thì bà cứ nghỉ quách đi, ít tiền ít tiêu”. Nhưng bà không dám vì đứa con gái út. Bà bảo “Tôi ráng làm để dành dụm tí nào hay tí đó cho nó. Mai mốt chúng tôi nằm xuống, nó chẳng trông mong gì được ai. Con chị nó có gia đình với ba đứa con, còn lâu nó mới chăm sóc nổi em nó. Mà chị em nó cứ ba bảy hăm mốt ngày, cãi nhau như quạ! Tôi làm di chúc để phần lớn lại cho con út. Tội nghiệp nó. Giá nó bình thường như người khác, có chồng có con thì tôi đỡ lo biết bao nhiêu”. Bà đi làm, lưng còng gập xuống, lê bước lên xuống những bậc thang, tôi thấy mà ảo não thay! Tôi cũng mong đứa con gái thấy cảnh mẹ nó chống gậy bước từng bước lên bậc tam cấp để mà tự thức tỉnh, tự bước ra khỏi cõi u mê của chính mình cho mẹ mình đỡ khổ. Nhưng tôi biết thừa nó nhìn ai cũng ra thành quỷ dữ có đâu nhìn thấy dáng mẹ mình lom khom, thở hổn hển muốn ngất mỗi khi phải làm việc gì nặng nhọc.

Bà còn là một tay làm bánh tuyệt vời! Cả sở nghe nói bà mang bánh tới thì nháo nhào tranh nhau xuống phòng ăn lấy bằng được một miếng bánh của bà. Bà kể với tôi bà bắt đầu làm bánh từ khi còn trẻ, mới đầu là một cái bánh sinh nhật, sau đó làm bánh đám cưới. Bạn bè gần xa trong cái thành phố năm ngàn dân Topeka ở Kansas xếp hàng đặt bánh của bà.  Sau này thêm ông khéo tay, giúp bà trang trí bánh nên bánh của bà rất đặc biệt, có một không hai. Bà say mê với nghề làm bánh, vừa làm lấy công vừa làm để ăn, vừa là một thú vui. Một hôm bà chợt nghĩ cô con gái lên cân đều đặn có thể là  tại vì những ổ bánh thơm nức mũi nhưng đầy đường đầy bơ của bà. Bà quyết định dẹp hết, không bánh không trái, không mùi quyến rũ thì chẳng thể đổ hô tại những ổ bánh vàng ươm của bà góp phần làm con mình tăng ký. Chỉ trong hai ngày cuối tuần, bà đem tất tần tật các khuôn bánh, máy đánh trứng, các đồ nặn kem, bắt bông bắt hoa đi cho sạch. Vậy mà chỉ trước đó một tháng, bà nói với tôi dự định sẽ mở tiệm bánh tại nhà. Bà vẽ vời cho tôi thấy phòng nào trong nhà sẽ biến thành phòng làm bánh của bà, phòng nào sẽ để cái tủ lạnh, rồi phải mua cái lò nướng lớn hơn một tí ra sao! Nghe tin bà dẹp tiệm bánh từ trong trứng nước, tôi chưng hửng. Trong sở có vài người đặt bà làm bánh sinh nhật, bà gọi điện thoại từ chối hết, quyết chí không đụng đến đường đến bơ nữa. Tôi biết bà buồn lắm nhưng vì con, bà hy sinh thú vui đã từng có từ khi bà chỉ là một thiếu nữ mười tám tuổi tập tễnh làm bánh sinh nhật cho đứa cháu mình.

Một hôm đang ngồi làm việc, tôi nhận được tin nhắn của ông báo tin “Vicki vừa được bác sĩ báo cho bà ấy biết rằng bà ấy bắt đầu triệu chứng của bệnh Dementia. Xin mọi người thông cảm cho Vicki nếu bà ấy không nhớ câu hỏi hay câu trả lời. Bà ấy chỉ không nhớ, thế thôi”.  Vây là nữ thần lãng quên đã đến gõ cửa vào bộ nhớ của bà mất rồi. Tôi không tin, liền gọi điện thoại cho bà thì y như rằng bà lập đi lập lại một câu hỏi cả chục lần với tôi vì bà không nhớ nổi câu trả lời. Bà khiến tôi nhớ đến Má. Dạo sau này có mỗi chuyện ông con rể mất việc mà Má tôi cứ hỏi đi hỏi lại, mỗi khi gọi điện cho Má, Má thể nào cũng hỏi tôi thế nó đã có việc khác chưa rồi chép miệng “Rõ khổ, không công ăn việc làm thì sao đây” mặc cho tôi giải thích với Má khản hơi là ông ấy đã có việc và đã kịp đổi việc đến ba bảy bận rồi. Sau cùng tôi chọn giải pháp làm lơ, hễ Má hỏi đến thì tôi trả lời, không còn cố tìm cách làm bà nhớ lại rằng chuyện thất nghiệp đã qua từ mười đời tám hoánh nào rồi.

Vicki nói cho tôi nghe là do máu không lên đều trên não gây ra một số tế bào óc bị chết chứ chẳng có nữ thần nào lấy cắp cái gì cả. Tôi nghe xong liền muốn nằm chóc đầu xuống đất để bảo đảm cho máu có xuống óc đàng hoàng, định luật hấp dẫn của trái đất sẽ làm cho các dòng máu phải chảy khắp não một cách ép buộc như thế chứ. Tôi bảo bà như thế thì bà cười phì, nói “Mập như tôi bây giờ mà chúc đầu xuống thì chỉ có té bổ chỏng. Thôi để tôi uống thuốc đi vậy. Mà bác sĩ có nói thuốc chỉ làm chậm sự phát triển của Dementia chứ không chữa được nó. Thế nhé, ngày nào còn nhớ tên nhau thì biết ngày ấy”. Bà nói thêm “Tại vì mấy viên thuốc đó mà tôi đành phải từ bỏ rượu trắng, rượu đỏ, không margarita, không champagne gì sốt. Không được một giọt cồn nào vào người đấy”.  Trước kia hàng ngày đi làm về, bà thường chiêu cho mình một ly vang đỏ trước bữa ăn. Ngày weekend, bà làm luôn nửa chai rượu champagne quãng 3 giờ chiều. Bây giờ ngay cả nguồn vui đó cũng bị tước đoạt, thấy bà cười nói vui vẻ bên ly nước lạnh trong veo, tôi biết đó là cả một sự cố gắng phi thường,

Ông bà đang tính bán nhà dọn về Oregon, nơi gia đình đứa con gái lớn đang ở. Bà rất đỗi phấn khích trước viễn cảnh được quanh quẩn gần ba đứa cháu ngoại. Riiêng ông nói lén sau lưng bà “Tôi sợ một ngày kia mình đi trước, không ai chăm sóc Vicki. Mà trí nhớ mờ mờ ảo ảo thế kia, làm sao bà tự lo thân được. Chúng tôi dọn về ở gần con gái, hy vọng có chuyện gì, nó chăm sóc được cho mẹ nó”. Tôi bất giác thở dài. Cả ông cả bà thi nhau đi bác sĩ, thi nhau vào nhà thương, hóa đơn dành cho bệnh tật dài như sớ táo quân. Như bà kể, có bao nhiêu tiền để dành đều lũ lượt nộp hết cho bảo hiểm sức khỏe với lại thuốc men. Bà kể cho tôi một cách tự hào rằng trong đời bà, bà đã vào phòng mổ đến những chín lần. Lần nào bà cũng ước nếu có chết thì chết như thế này: nằm trên bàn mổ, được một mũi thuốc mê, thế là không biết trời trăng đất nước gì nữa! Ông cũng cạnh tranh ráo riết với bà. Lần mổ bao tử cách đây hai năm gần như lấy hết sinh khí của ông. Ông phải đi khâu bao tử nhỏ lại vì trọng lượng ngày càng tăng của ông bắt đầu ảnh hưởng đến tim mạch. Sau đó ông gầy xọp vì ăn uống không đủ chất dinh dưỡng, vì bao tử không tiêu hóa được món này món nọ. Tôi làm bánh tráng cuốn thịt bò nướng vỉ, ông hân hoan chén 3 cái, bảo rằng ít khi nào ông được ăn ngon và nhiều như vậy. Riêng bà  ngồi trước ba món nước chấm khác nhau, bắt đầu lẩn thẩn. Tôi cũng tự giận mình vô ý, biết bà như thế mà còn đi đánh đố bà với sốt tương đen chấm thịt bò nướng vỉ, nước mắm chấm cho chả giò và xì dầu cho món sushi. Tôi dặn lòng lần sau đãi họ, cứ một món một nước sốt cho đơn giản, đừng làm khổ trí nhớ của mình lẫn của khách.

Tôi với bà đã làm bạn với nhau từ lâu. Bây giờ chính mắt nhìn thấy bà lơ ngơ, quên trước quên sau, đánh vật với ngôn từ, tôi buồn mà chẳng biết làm gì được ngoại trừ nếu bà có kể cho tôi nghe một câu chuyện khoảng năm lần trong nửa tiếng, tôi cũng vẫn điềm tĩnh chú tâm lắng nghe, nếu bà có mất đến năm phút để tìm ra được chữ “cream cheese” cho món bánh lừng danh của bà, tôi sẽ kiên nhẫn chờ. Vì tôi biết, một ngày kia, bà sẽ không còn nhớ tôi là ai để kể chuyện cho tôi nghe nữa. Và tôi cũng sợ, một ngày kia, bà chẳng còn nhớ chuyện gì để mà kể. Cho bất kỳ ai.

Ôi Dementia, sao nàng tàn nhẫn đến vậy!

Lan Hương

Fort Worth 12/17/2015