Pages

Tuesday, April 16, 2019

Notre Dame de Paris


Khi nó chìm trong biển lửa, tôi mới biết tôi yêu nó đến chừng nào! Yêu đến nỗi sau khi biết tin, tôi không còn lòng dạ theo dõi tin tức của nó, mà chỉ trong tích tắc, đã tràn ngập trên tất cả mọi thông tin trên thế giới. Chỉ vì tôi không muốn nhìn thấy nó hấp hối. Nó, giấc mơ thuở nhỏ của tôi. Tôi buồn đến mức buổi tối ông chồng hoan hỉ báo tin đã có nhà tỉ phú bỏ ra 113 triệu để xây dựng lại nó, tôi cũng chẳng thấy khá hơn. Sáng nay đã có 300 triệu để xây lại, tôi vẫn còn cả một nỗi buồn. Bởi cái gì đã ra tro thì khó lấy lại, cho dù cả nước Pháp có đồng lòng xây dựng lại nó.

Cớ làm sao tôi phải thương vay khóc mướn một cái nhà thờ tuốt bên Paris mà tôi thậm chí chẳng theo đạo Thiên Chúa, làm dấu 3 ngôi không biết bằng tay phải hay tay trái, và câu thần chú gì phải đọc khi lên nhận bánh thánh?

Bởi vì nó là những năm tháng tuổi thơ nằm bò trên giường nghiến ngấu thằng Gù Nhà Thờ Đức Bà của Victor Hugo. Là những tưởng tượng Quasimodo chạy nhảy trên những gác chuông, là Esmeralda với chiếc váy gypsy sắc màu rực rỡ, là thầy Claude Frollo nhân tâm khó lòng hiểu nổi. Nó là những ngày trời mưa tôi tưởng tượng bằng trí óc của một đứa trẻ, xa lạ với toàn bộ kiến trúc Gothic, không biết gargoyle là cái giống gì. Tôi chỉ biết nó vĩ đại lắm và là giấc mơ niên thiếu của tôi, được một lần nhìn thấy nó trong đời.

Thế mà giấc mơ thành sự thật. Tôi và chị tôi đến Paris tầm năm 1989 – 1990, khi giấy tờ tùy thân còn là phận kẻ tị nạn, cấm tiệt không được đi ra khỏi Bỉ, ở đâu ở yên đấy chờ ngày vào quốc tịch. Thế là chúng tôi bèn “vượt biên” sang Pháp. Thay vì phom phom trên xa lộ để đối mặt với cái cổng nhà đoan, chúng tôi đi đường làng. Thuở ấy làm gì có Garmin, Google Map vởi lại Wazze, cho nên tôi ôm tấm bản đồ tổ chảng, mắt lom lom nhìn ngó tên đường tên làng, bảo chị tôi quẹo trái quẹo phải. Canh đúng tầm đến nhà đoan trong làng khoảng giữa trưa lúc lính gác biên phòng phóng về nhà làm ly rượu chát với dăm miếng fromage, bỏ lại tiền đồn trống hoác cho chị em tôi lái sang cùng với mấy con bò. Sau khi vượt biên thành công, chúng tôi trực chỉ hướng Paris thẳng tiến.

Ba đêm ngủ trong cái nhà khách của tòa đại sứ quán việt nam ở Paris, tôi chỉ còn nhớ lờ mờ là nó hôi nồng mùi thức ăn, dầu mỡ, phòng tắm bẩn đến nỗi ngần ngại mãi không dám vào, và buổi tối tôi chui trong cái sac couchage, kéo fermeture kín mít vì sợ gián! Mà chúng thì bò lổm ngổm khắp nơi khắp chốn trong cái nhà 3 tầng này. Về kể cho Má nghe chuyện cái nhà khách, Má liền đuổi thẳng chị em tôi ra sân sau, bắt thay đồ vứt vào máy giặt và đi tắm ngay lập tức để giết trứng gián! Sau đó Má chép miệng, sang đến đây rồi mà còn ở dơ!

Tôi nhớ buổi chiều ngay hôm đến, tôi đề nghị đi thăm Notre Dame. Cả bọn kéo ra metro đổi hết trạm này sang trạm khác, trạm chúng tôi phải xuống mang tên Notre Dame, đố mà lạc được. Chui ra khỏi hầm metro mắt còn quáng gà, tôi dáo dác nhìn quanh. Chị tôi bảo sau lưng mày đó. Tôi quay ngoắt lại và chẳng thấy gì. Chị lại bảo, kia kìa hai cái tháp của nhà thờ. Tôi há hốc miệng. Sao mà lùn tịt thế! Trong tâm tưởng của tôi, nó phải to đùng vĩ đại bao trùm cả Paris kia chứ. Nhưng mà nó thật sự đứng đó, nhìn tôi. Tôi nhìn nó rồi bắt đầu tiến lại gần. Khi đó tôi mới thấy hết vẻ đẹp của nó. Tôi ngắm nghía các gargoyles, không con nào going con nào, tự hỏi sao nhà thờ ác thế, đổ chì nóng cho chảy ra miệng các gargoyle để dội lên đầu quân thù! Cả buổi chiều chúng tôi lòng vòng ở đây, đi vòng quanh rồi đi vào nhà thờ tôi ngẩng đầu tìm kiếm Quasimodo nhưng không thấy, chỉ thấy du khách khắp nơi đổ về, xì xồ đủ mọi loại ngôn ngữ.

Đó là lần đầu tiên tôi đến Paris và thăm Notre Dame. Lần thứ hai nhân dịp chạy qua đó lấy bánh su sê đám cưới của tôi. Lúc ấy là vào mùa thu, các hàng cây giăng lá vàng, và Notre Dame lần này soi bóng dưới dòng sông Seine cùng với hàng cây thay màu lá, thanh bình tĩnh lặng. Tôi vẫn chưa lên tháp chuông nào và mỏi mắt mong chờ Quasimodo, các nàng Esmelrada lượn quanh nhưng tôi phải lo thủ cái túi tiền của mình cho chặt!

Lần thứ ba đến với ông chồng và 2 thằng con, một thằng còn ngồi xe đẩy. Lần này con cái vướng tay vướng chân, tôi xin ngồi ngoài sân giáo đường, thả hai thằng con cho chạy loanh quanh và chỉ cho chúng xem các gargoyle trên mái nhà. Nhà thờ vẫn đông và tôi nhìn ai cũng ra Quasimodo! Có lẽ con nó hành cho mờ cả mắt.

Lần thứ tư là khi hai thằng con đã lớn, đã lõm bõm học/đọc Thằng Gù nhà thờ Đức Bà trong giơ văn chương ở trường. Lần này tôi thong thả hơn, ngắm nhìn các tượng điêu khắc kỹ càng hơn, ngắm từng chi tiết uốn lượn theo gờ mái và đã biết kiến trúc Gothic là gì. Tôi không tìm Quasimodo lẫn Esmelrada nữa. Nhưng có một ông thầy tu hao hao Claude Frollo làm tôi nhìn ngài cho đến khi khuất bóng. Và tôi vẫn không leo lên tháp chuông nào vì hàng người xếp rồng rắn chờ lên làm nản lòng rất nhanh.

Để bây giờ nó đổ sập, tôi thấy như có dao cứa vào lòng! Tôi đau đến nỗi sẽ không để hình nó lên bài này, lúc nó còn nguyên vẹn, ngạo nghễ với thế giới, hay nó quằn quại trong biển lửa đỏ rực,
 Và rồi khi nỗi đau đã nguôi ngoai, tôi sẽ xem nó sống dậy. Phượng Hoàng hồi sinh từ đống tro tàn, tôi hy vọng như thế.

Lan Hương

Fort Worth 04/16/2019