Pages

Friday, March 27, 2015

Ấp Thái Phiên (Hương Quỳ)



Vườn Thái Phiên
Một trong những Bác gái của tôi có một nông trại trồng rau ở cách Dalat khoảng 8 km. Thời chúng tôi còn nhỏ, đây là nơi Bố Mẹ chúng tôi một đôi lần gửi con cái xuống cả tháng vào dịp hè, còn không, chí ít một lần trong tuần, những gia đình sống ở Dalat ghé xuống thăm.

Đường đi đến nơi Bác ở, qua bao cảnh đẹp của Dalat, hồ Xuân Hương, khu nhà ga  xe lửa, khu Chi Lăng, đến hồ Than Thở, qua mấy dẫy nhà xây cho gia đình sĩ quan của trường Võ Bị, rồi đến cổng làng, sừng sững trên cao với dòng chữ "Ấp Thái Phiên".

Thời lập khu dinh điền của cố tổng thống Ngô đình Diệm, và để xác đinh chính kiến với phe nằm vùng suốt ngày quấy rầy dân chúng, làng còn được vây quanh bới hàng rào ấp chiến lược.

Đến bây giờ, ngay cả trong những lần nhớ về quá khứ, nơi chốn này hiện ngay ra trong tâm trí tôi với con đường làng gập ghềnh ổ gà và bụi mù đất đỏ, bên phải là những ruộng rau xanh theo tầng lớp xuống triền đồi, vắt  qua ngọn đồi đối diện, và tiếp nối đến tận chân ngọn núi Hồng Bồ xa xa dõi nhìn xuống làng ấp êm đềm chung quanh. Bên trái là rừng thông bạt ngàn  chen lẫn sắc hoa sim   cùng các loài hoa cỏ dại khác.

Hoa túc cầu
Trước cổng nhà Bác, lối đi vào nhà được viền hai dẫy hoa, có lúc là hoa túc cầu ( hortensia), có lúc là hoa  chùm đại đóa màu xanh biếc chạy dài đến hiên nhà. Trong lúc chờ các Bác dưới vườn đi lên, chúng tôi đã kịp chạy mấy vòng trong khoảng sân, nơi có cây hoa lựu đỏ tươi, cây trái Phật thủ, cùng giống với chanh, nhưng lại túa ra trên đầu những ngón tay vặn vẹo. Có cả một cây bưởi trĩu trái, nhưng rất chua, chả làm được gì khác ngoài việc cắt vỏ cho khéo làm thành một cái mũ đội lên đầu chơi, hoặc lăn trái trong sân thay thế quả banh. 

Tôi có ba người anh chị họ ở đây, sấp xỉ cùng tuối. Trong niên học, anh chị lên ở nhà ba má tôi, nghỉ hè, anh chị trở về trị vì vương quốc của mình.

Chúng tôi ríu rít  lời chào hỏi với hai Bác, quăng vội mấy giỏ quần áo lên phòng; rồi theo Anh Chị đi thăm viếng vườn đất. Con đường bên hông nhà dẫn qua những vườn mận, mùa hè trái chín vàng phủ một lớp phấn trắng, cắn vào thì chua ê cả răng, nhưng chúng tôi cũng không từ, leo lên hái vội vài trái, rồi tiếp tục lên cao trên sườn đồi đến thẳng chuồng nuôi gia súc, nơi có bầy heo nái nằm một cách lười biếng cho cả chục heo con rúc vào bú mẹ, thỉnh thoảng ụt ịt lên vài tiếng, và nhướng cặp mắt ti hí nhìn chúng tôi. Mùi phân oải không làm chúng tôi sợ hãi, chỉ chăm chú đếm tổng số heo lớn bé đang có trong chuồng. Chuồng gà ở bên cạnh, ríu rít tiếng gà con quẩn quanh chân gà mẹ. Trước đôi mắt ngưỡng mộ của chúng tôi, ba người anh chị họ hào phóng xông vào giữa bầy, bắt cho mỗi đứa một chú gà con cầm... chơi, vuốt ve cho bằng thích, cho đặt tên, coi như tài sản của riêng mình suốt những ngày ở đây (và tôi nhớ lúc đi về, cảnh chia tay với gà hết sức bịn rịn không kém gì những phim tình cảm Trung Hoa thời đó!). Chuồng vịt ở không xa, đầy những con vịt lông trắng toát, lạch bạch đi quanh chậu nước, thỉnh thoảng rúc đầu vào tát nước lên mình một cách sảng khoái, bầy lẻ loi một con với màu lông pha lẫn đen, không hiểu sao lại được chúng tôi đặt tên là con " Sáu Cà", là tên của người thợ sửa xe, gần như là con nuôi của một người Bác khác, có lẽ vì ấn tượng với bộ quần áo nhem nhuốc dầu máy xe và tật nói hơi bị cà lăm của anh ta.
Vườn rau xanh ngắt một màu

Hai bác tôi để hết phía trên đồi cao để trồng cây ăn trái : mận, đào, chanh...Chắc bán buôn cũng chả được là bao với lũ cháu xuống đây mùa trái chín, tấn công cây trái không khác gì giặc châu chấu. 

Sau đó cả lũ tuôn hết xuống sườn đồi, băng qua con đường làng xuống ruộng vườn bên dưới. Lại là một cảnh trí khác với những hộc nước được đào để chứa nước tưới rau, đầy nòng nọc, và sẽ là hồ bơi thuyền (bằng một thau nhựa lớn) của chúng tôi. Lần nào cũng phải vào vườn carotte nhổ một cây lên, rửa sơ qua, và cắn dòn tan trong miệng dù chả đói kém gì. Những cây sú trắng, choufleur,  salade được trồng ngay hàng thẳng lối. Đất thịt đỏ thắm, không đến một cọng cỏ, nhờ công lao nhưng người thợ được mướn chăm sóc hàng ngày. Dưới đáy thung lũng, là một hồ lớn hình chữ nhật, đầy hoa súng và cỏ lau, chứa đựng bao nhiêu điều bí ẩn với màu nước hồ lúc nào cũng xanh đen, nơi chúng tôi vẫn  bỏ ra hàng giờ để câu những con cá chép nhỏ, hay rình bắt những con chuồn chuồn đủ màu sắc đậu trên những cành lau. Cuối ranh giới vạt đất của bác tôi, còn một hồ lớn nữa, được trồng viền những đám mía voi sắc tím,  là thứ giải khát chúng tôi rất ưa chuộng. Bằng những đôi chân không mệt mỏi, chúng tôi còn  leo tiếp lên ngọn đồi trước mặt, ven theo ruộng vườn của nhà khác, như một lối tắt đi vào trung tâm làng.

Thái Phiên dạo ấy, không đến trăm nóc gia, phần lớn là người nói tiếng Huế và tiếng Quảng Nam. Chỉ đâu chục gia đình thuộc gốc người miền bắc như bác tôi. Chúng tôi đi xuyên qua làng với những  lời thăm hỏi từ các quán xá ven đường : " Con nhà Chính đi đâu thế hả?" để đến khu đât mới của bác tôi gần hồ Than Thở. Đất chả có hàng rào phân chia lô, chả hiểu làm sao anh chị họ tôi lại biết đât nào của gia đình. Đất chưa khai phá, đầy thông non. Mỗi đưa leo lên một cây cao nhất theo sức mình để ... săn lùng ổ chim. Tôi thì thích xăm soi dưới đất ngắm nhìn thềm thực vật với những bông hoa nhỏ xíu, những cây bắt ruồi,  những loại cỏ nâu, những loại lau lách bên những hục nước nhỏ, nơi có những con nhện nước làm ảo thuật băng mình trên mặt nước như tia chớp ,cùng một mớ nòng nọc lăng quăng lội với cái đuôi kỳ lạ của mình. 
Hồ Than Thở

Sau đó phái đoàn còn men theo giòng suối nhỏ, băng vũng đất lầy để qua phía bên kia hồ Than Thở, thử hết các vật chắn và cột leo trên bãi tập của sinh viên trường võ bị quốc gia, lội thêm một mớ trong các vũng nước đọng, rồi mới quay về nhà  bằng con đường chính, rơi đúng vào bữa cơm đang đợi mình.

Buổi chiều, chúng tôi tìm khe hở vượt qua hàng rào ấp chiến lược, leo lên các ngọn đồi thông tìm sim và trái mát mát, hoặc đi theo một đoạn đường đất đỏ có dòng người dân tộc đang trở về buôn làng ở đâu đó rất xa đàng trước. Có lần trời mưa trong chuyến du hành này, chúng tôi chả ngại ngần gì ghé thẳng vào một vườn tược gần đấy, hái một mớ lá môn làm dù che mưa. Con đường đất đỏ này nằm trong tâm trí tôi như một đường đi không đến, vì chúng tôi lúc nào cũng bỏ cuộc nửa chừng để quay về nhà.

Trường Võ bị quốc gia nằm cách làng vài quả đồi. Chúng tôi khám phá ra nhờ những lần đi tập lái xe gắn máy. Cả lũ nghịch ngợm leo lên cái xe Goebel, đứa cầm tay lái ráng giữ thăng bằng cho đứa khác đẩy đằng sau xe lấy trớn sang số, lý do là chân cẳng con nít còn ngắn quá không thể tự đạp xe để đề cho máy nổ. Sau đó, đứa đẩy nhảy phóc lên ghế sau. Và cứ thế đi dài hết con đường cho đến hồ Than Thở. Tắt máy xe quay đầu lại, hì hục đẩy tái diễn màn cài số xe, và vi vút đến tận cùng con đường, nơi chắn sừng sững cổng trường võ bị quốc gia. Người lính gác cổng nghiêm chỉnh nhìn chúng tôi, mỉm một nụ cười trước lời chào hỏi. Tôi nhớ có lần xoay sở mãi trước cổng mà xe không nổ máy, cũng chả có ai ra la mắng đuổi đi, chắc tại thời ấy, chưa có kamikaze! 
 


Cổng trường Võ Bị Quốc Gia Dalat
Những buổi cơm tối ở nhà Bác, trong ánh đèn dầu vì có thời ở đây không có điện. Cả lũ xơi tận tình những bữa cơm rau trái vườn nhà, lâu lâu được đệm thêm miếng thịt nai hoặc heo rừng mua được từ những người thợ săn hoặc người dân tộc, và há hốc miệng nghe bác trai kể lại thời oanh liệt của Bác, khi là lính ngự lâm của ông Hoàng Bảo Đại, chuyên theo Ngài đi săn bắn ở Ban Mê Thuột. Kỷ niệm những lần săn bắn ấy, Bác còn giữ lại cho mình hai cái gạc sừng nai trang trí trong phòng khách, nơi lũ trẻ chúng tôi vẫn ráng ném từ xa  các mũ đội đầu để được móc vào sừng nai.

Ông anh họ dẫn cả lũ lên lầu sau bữa ăn, thăm viếng mấy tổ chim én dưới rầm nhà, lôi cả trứng chim ra đếm mặc chim mẹ kêu la. Sau đó là vào giường, êm ái chìm vào giấc ngủ với tiếng chim rúc rích, và tiếng người lớn nói chuyện xuyên qua các khe hở của sàn nhà bằng gỗ. Bóng tối tràn lan khắp nơi không làm tôi sợ hãi, vì còn vài khung cửa sổ thi thoảng vẫn được thắp sáng lên nhờ ánh trăng.

Mỗi ngày, đi lại qua ngần ấy con đường, ngần ấy ruộng vườn, thăm viếng ngần ấy súc vật, nhưng sao chúng tôi không hề chán, có lẽ vì mỗi lúc, lại có một sự kiện gì đó xen vào, chả hạn tìm được vài hang dế, nhổ được một củ carotte mọc dính liền nhau, khám phá ra mớ nấm mèo mọc trên hàng rào ấp chiến lược ....

Cứ như thế, mùa nghỉ hè hoặc những lần thăm viếng hai Bác êm đềm trôi qua.

Rồi bất ngờ dừng lại, khi một tai nạn thảm khốc lấy đi hai anh chị họ, một chị khác bị trọng thương. Chúng tôi biết tin ấy khi vừa đi học về. Cả nhà nháo nhào lên và ngập tiếng than khóc. Người em gái út  mất đi ngay tại chỗ, người anh cả còn vẫy vùng kêu la suốt cả đêm dài trong bệnh viện rồi mới ra đi, người em kế hôn mê ... 

Hai Bác mụ mị đi trước tin dữ, và quyết định mang các con về nhà, ở trong căn nhà mới xây chưa kịp ăn tân gia. Bác gái vừa khóc vừa nhắn vơi chúng tôi :

"Các cháu đến ở lại với Anh Chị mấy ngày cho ấm cúng nhà Bác".

Đường đến Thái Phiên
Nên cả lũ chúng tôi đến, xếp chiếu nằm ngủ mấy đêm liền dưới chân hai quan tài thắp nến, trong căn phòng mịt mờ hương khói. Vẫn còn ngơ ngác với cụm từ âm dương cách biệt. Cũng biết sợ với sự im lăng khủng khiếp của hai cỗ áo quan. Nằm sát vào nhau, đẩy hai đứa con trai ra nằm hai mép chiếu. Và thấy lạnh, cái lạnh đến từ cõi chết, dứt ra khỏi chúng tôi những kỷ niệm sôi động mới chỉ vừa cuối tuần qua. Không đứa nào cất tiếng khóc, chỉ thấy tê tái trong lòng  với ý nghĩ những người bạn của mình bỗng dưng bị kết án dừng cuộc chơi lại, bỏ chúng tôi mà đi, hoặc đang lặng lẽ nhìn chúng tôi quây quần, nhưng không còn cất được tiếng nói nữa. 

Cũng đọc kinh cầu siêu, những dòng kinh bằng tiếng Phạn, đọc lên mà chả chuyên chở một ý nghĩa gì để trấn an chúng tôi rằng hai Anh Chị sẽ nhờ vào đấy mà đi đến thiên đàng, còn làm chúng tôi bật cười vào cái lúc không nên cười tí nào, chả qua tại thằng cháu cứ gào váng lên một cách nghiêm chỉnh....

Cái chết của hai anh chị gây một ấn tượng rất lớn trong thời niên thiếu của tôi, cho đến tận bây giờ, ngày tháng ấy, tôi vẫn nhớ lại và thấy se lòng. 

Chúng tôi vẫn tiếp tục đến thăm gia đình Bác, và không thể quên hình ảnh của Bác gái đứng trước cổng nhà dõi mắt nhìn chúng tôi đi. Vẫn nhớ những bữa cơm Bác xới ra một mâm để trên bàn thờ, nơi có hình ông anh họ với đôi mắt "sọ dừa ", và hình người chị họ với đôi mắt bồ câu, khuôn mặt xinh đẹp hay bị tụi con nít lợi dụng làm "mỹ nhân kế " mỗi lần gửi đi  mua me ngào của bà cai trường Trần bình Trọng  sau nhà. Bác thắp nén hương  đặt trước các hình, nói một cách tự nhiên : 

"Các em nó đến chơi với chúng mày kìa, Mẹ làm những món chúng mày ưa thích, có ngon không đấy? "

Như chả có gì ngăn cách Bác với những người con không còn lớn nữa.

Rồi chúng tôi đi xa, rất xa. Hai Bác lần lượt qua đời, chúng tôi không có hình ảnh để có thể đặt chung trên bàn thờ gia tộc, chứng tỏ sự thiệt thòi bác gái vẫn hay bị trong cả cuộc đời của bác, so với các chị em gái khác . Người chị họ sống sót, lập gia đình, từng cùng đi với tôi xuống Saigon để chữa bệnh hiếm muộn, và sau đó, cho ra một lèo bốn mống con trai  đã cùng với chị và ông chồng gánh vác cơ ngơi vườn tược của hai bác để lại .

Lần tôi về thăm nhà lần đầu sau 15 năm, ấp Thái Phiên vẫn đón tôi bằng con đường bụi đỏ, nhưng không còn thấy những ô ruộng tầng lớp lẫn những đồi thông xa xa. Tất cả đều khuất dưới những tấm nylon thay thế nhà kính, kéo dài khắp nơi, xấu một cách khủng khiếp. Các nhà nông ở đây đổi qua phần lớn trồng hoa  xuất khẩu. Những đóa hoa cúc, hoa glaieul, hoa đồng tiền hàng hàng lớp, sặc sỡ, nhưng đẹp một cách vô hồn. Thằng em tôi chắt chiu gửi về  những giống hoa túc cầu (hortensia), chắc để tìm lại lối vào nhà trĩu nặng những bông hoa loại này trong trí nhớ, nhưng hoa không mọc lên được trong điều kiện dưới lớp nylon. Những vườn cây trái trên cao biến thành vườn trồng cà phê, khu gia súc chỉ còn lại vài con heo ụt ịt, bầy gà lao xao trong vườn,  thêm bày ngỗng xà cái cổ dài rượt đuổi chúng tôi trong vai trò canh giữ nhà cửa. Thế thôi, ruộng rau xanh bị đẩy đi tít những tận đâu không biết. Người chị họ tôi đứng với đứa con trai út, nhìn chúng tôi như những vị khách lạ, câu chuyện bỗng ngập ngừng, vì hai cảnh đời chăng? Khiến chúng tôi cũng không dám đặt câu hỏi cái này và cái kia giờ ở đâu. 

Chuyến về thăm quê hương lần ấy, để lại trong tôi những nỗi buồn hoài cổ, đến độ tôi còn thấy mừng khi rời Dalat, rời Việt Nam.  

Thái Phiên ngày nay
Lần về Việt Nam 2008, tôi lại quay xuống đây, ấp Thái Phiên. Tôi nhìn thấy mớ chén bát rửa còn chưa ráo nước ở ngoài sân cho giỗ 49 ngày người chị họ, mất vì ung thư phổi, chiến đấu can cường với căn bệnh cả năm trời, không chấp nhận cái chết đến với mình khi con cái còn chưa trưởng thành, và còn bao nhiêu công việc còn dở dang. Vì cái tội trồng hoa trong vườn rào kín nylon, và hít hết hóa chất xử lý cây  theo tiêu chuẩn phải không? Bàn thờ ngoài hình hai Bác và hình hai người con không lớn tiếp, còn có hình chị họ tôi với nụ cười thiếu phụ tươi tắn.

Tôi nhìn người chồng và những đứa con phờ phạc vì những tháng dài vất vả, nhìn ruộng vườn đã cầm cố hết để trả nợ, nhìn lối đi dạo còn hạn chế hơn nữa, vì  không còn là của nhà. Tôi dừng lại trong khoảng sân, vẫn còn cây lựu đỏ, cây bưởi,  và hàng hiên nơi đã có tấm hình chụp cả lũ quần áo xốc xếch, cười toe toét khoe những hàm răng đứa nào cũng sún vài cái  vào một mùa hè rất xa xưa...Rồi quay người đi xuống cổng, làm như không nhìn thấy tấm bảng rao bán nhà. Lúc này nước mắt mới bắt đầu tuôn rơi, cho một dĩ vãng đã qua đi không bao giờ còn thấy lại. 

Vĩnh biệt ấp Thái Phiên, nơi đã trao tặng cho tôi những kỷ niệm làm đẹp hết cả thời tôi còn ở quê nhà, vĩnh biệt hai Bác và những anh chị họ đã qua đời. Hiện tại như một cánh cửa được khép lại, nhưng trong tâm trí , tôi vẫn nhìn thấy hiển hiện trước mắt mình những ngày tháng êm xưa, và sẽ mãi mãi mang theo mình những hình ảnh đó cho đến lúc trí nhớ bị phai tàn ...

Hương Quỳ (Bruxelles, 03/26/2015) 

Thursday, March 26, 2015

Ánh Hỏa Châu


Hỏa châu rực sáng một góc trời. Dưới đường tiếng người xôn xao, láo nháo vọng lên. Xe Jeep, xe Honda tới lui tấp nập từ Ty Cảnh Sát trên đường Trần Bình Trọng đổ xuống con dốc Yagut vỗn thường yên tĩnh suốt cả buổi chiều nay. Trời tối đã lâu, thế mà xe cộ vẫn còn qua lại ầm ì không dứt. Trên bàn thờ Phật, đôi cây nến đỏ lập lòe cháy, nhang khói cuồn cuộn, thơm lừng. Tôi ngồi thu lu trên góc ban công, khuất sau giàn hoa giấy rậm rạp, tay nắm chặt con voi đỏ nhồi bông gòn. Má xì xụp khấn vái hồi lâu bên bàn thờ rồi bước ra bảo tôi:
-       Nếu mình niệm đúng một trăm lần Nam Mô A Di Đà Phật thì tai qua nạn khỏi. Lạy trời khấn Phật xin phù hộ cho chúng con…
Rồi Má thở dài nhìn vào màn đêm bất an. Thế là tôi bắt đầu lẩm nhẩm câu kinh đầu tiên trong đời mình giữa ánh sáng chói lòa của hỏa châu, giữa tiếng súng đì đùng từng chập ở xa xa vọng về. Tôi chưa phân biệt được tiếng súng nào phe ta, tiếng nào phe địch. AK47 cắc bụp, cắc bụp hay M16 tạch tạch tạch, đối với tôi, đều mang đến cùng một sự chết chóc và chia lìa như nhau cả.  Điện đã bị cúp từ lâu. Chúng tôi lò mò trong ánh nến từ chạng vạng tối đến giờ. Ba bảo Nhà Đèn không có ai trực nên họ cúp điện luôn cho tiện. Đài phát thanh Dalat cũng đã tắt tiếng, cái tivi mất sóng, chẳng tiếng nói, không hình ảnh, màn hình đen ngòm. Cửa tiệm đóng cả mấy ngày nay, Ba ngồi nhà với cái radio cố dò làn sóng đài Voa hay BBC nhưng vô hiệu, chẳng nghe được gì ngoài tiếng nhiễu mạch rè rè.

Hôm trước tôi nghe Bác Tự nói với Má:
-       Thằng Mạnh tính lấy xe chở cả nhà nó chạy về Saigon, Cô Chú muốn thì cho hai đứa nhỏ đi, còn chỗ đấy.
 Má trả lời:
-       Thôi để chúng nó lại, biết có đi được tới nơi không. Tôi sợ lắm…
 Riêng tôi không thấy sợ, hồi hộp trong lòng thì đúng hơn. Tôi đang mong chờ một điều gì đó lớn lao xảy đến, và sẽ đến theo kiểu nào thì tôi không cách gì hình dung ra được. Chung quanh tôi mọi người chộn rộn, bồn chồn, lo lắng  như kiến vỡ tổ.

Từ dạo sau Tết đến giờ, thế giới trẻ thơ êm đềm của tôi có vẻ như không còn bình yên nữa. Nhìn nét mặt Ba Má tôi thì biết ngay. Biến chuyển thời cuộc thay đổi nhanh một cách đáng kinh ngạc. Tôi thường vẫn hay đọc báo cho Má tôi hàng ngày kiếm tiền tiêu vặt. Tôi đọc như một con vẹt mà chẳng hiểu gì mấy, đọan nào tôi không thích thì tự ý kiểm duyệt lọc bỏ, nhất là những khúc tiếng Anh rườm rà, tôi cứ thế phớt lờ nhảy cóc. Tội nghiệp Má tôi, thông tin thiếu hụt nhưng bà vẫn moi tiền trả tôi đầy đủ. Dù thích trang Bambi của báo Chính Luận hơn những bản tin chiến sự nằm chình ình trên trang nhất, tôi vẫn lơ mơ hiểu rằng sắp có đánh nhau to, rằng Việt Cộng đang ở đâu đây rất gần.

Ngày sinh nhật của tôi năm 1975 cũng là ngày mở màn cho cuộc tổng tiến công miền Nam do những người từ miền Bắc thực hiện, mà Ban Mê Thuột là thành phố đầu tiên hứng chịu nỗi kinh hoàng đó.
Ban Mê Thuột di tản



Buổi chiều đi học về, tôi đang ngây ngất với quyển sách Đỉnh Gió Hú thì cảm nhận được cả một bầu không khí nghiêm trọng trong nhà. Đầu tiên hết, Ba đóng cửa tiệm Nhật Tân về nhà sớm, rồi tôi thấy mắt Má đỏ hoe. Me và Bác Nội cũng lên nhà tôi, ngồi trong phòng với Má. Một lúc sau Bác Tự vào đến. Người lớn đóng chặt cửa ngồi trong phòng, lầm rầm với nhau. Lũ con nít chúng tôi bỗng dưng lặng lẽ một cách bất thường. Tôi và con em cũng thôi không gấu ó cãi nhau nữa. Tôi bỏ xuống bếp ngồi chơi với chị Hường, chị giúp việc trong nhà. Chị Hường bảo:
-       Ờ, ông bà đang lo cho cô Quỳ mà.
Tôi chợt nhớ ra bà chị tôi đang theo trường Caritas lên Ban Mê Thuột thực tập ngay sau Tết. Bà ấy thế là lọt thỏm vào giữa vùng loạn lạc đang đánh nhau chí mạng! Chiến tranh thực sự đã bắt đầu len lỏi vào nhà tôi và tôi được nếm mùi vị của nó bằng sự lo lắng không biết chị tôi đang ở đâu, làm gì trong cái lò lửa sôi sùng sục toàn đạn với bom đó.

Một hôm tôi bắt gặp bức ảnh đoàn người thất thểu chạy giặc trên quốc lộ 13, tuyến đường chính nối Ban Mê Thuột với Nha Trang, được đăng trên trang nhất của các tờ báo. Tôi cầm cho Má xem, Má lại nức lên:
-       Con ơi, Quỳ ơi!
 Má tôi cứ nước mắt giọt vắn giọt dài, nhờ chở bà đi khắp nơi để hỏi thăm tin tức. Ba tôi thì đóng cửa phòng lại, nằm khóc hờ “Con ơi, ối con ơi!” . Buổi tối cả nhà châu đầu xem tình hình chiến sự trên ti vi. Má bảo tụi mày nhìn kỹ xem có thấy nó không. Trong đám người chạy lọan, giữa muôn ngàn khuôn mặt lo âu thất thần, làm sao nhận cho ra chị? Dòng người như con sông lớn, cuồn cuộn đổ về phía xuôi, tay xách nách mang, túi bị lủng lẳng, chân thấp chân cao, mặt mũi vặn vẹo, mếu máo... Đàng  sau lưng họ, bầu trời vẫn rực đỏ màu lửa của đạn pháo xen lẫn màu đen cuồn cuộn của những đám cháy! Tôi còn nhớ hình ảnh bà mẹ trên đường chạy giặc, gặp đứa con trai là lính, đi chiều ngược lại, về nơi mà bà đã bỏ hết để thoát thân, về chốn chỉ có khói lửa, súng nổ, đạn bay và bom rơi. Hai mẹ con ôm nhau, chẳng ai nỡ dứt áo đi tiếp vì chia ly chỉ có thể là vĩnh viễn. Tôi đã bắt đầu hiểu chiến tranh là chỉ có chia lìa, như chị tôi với gia đình, như hai mẹ con người lính, như bao em bé lạc mất người thân kêu gào tuyệt vọng trên Đại Lộ Kinh Hoàng đó!
Đài phát thanh Dalat mỗi trưa, mỗi tối vẫn đọc lời nhắn với chị tôi “Con ở đâu cho gia đình biết tin gấp!”. Má tôi nghe rồi nghẹn ngào, Ba tôi không cầm được nước mắt, tuyệt vọng thở dài. Má tôi đến mức liều lĩnh tính mướn mấy người Thượng dẫn bà theo đường rừng lên Ban Mê Thuột tìm chị, nhưng khi nghe nói đến Fulro, bà chững lại.
Dạo đó nhà tôi cứ như là Tổng Ban Tham Mưu. Các ông bà bác xúm lại bàn luận chiến sự sau khi nghe BBC, Voa, bàn tán tình hình chiến cuộc cứ râm ran cả lên. Tôi, một con nhóc đang tuổi ăn tuổi lớn, chẳng biết gì, thỉnh thoảng ló đầu vào phòng nghe ké. Được dăm phút tôi phát ngấy với những từ “Việt Cộng”, “Mặt trận giải phóng”, “Du kích”…Và rồi một hôm tôi nghe thấy chữ “di tản”.

Đà Nẵng di tản
Sau Ban Mê Thuột, đến lượt miền Trung rúng động. Huế rồi Đà Nẵng thất thủ, thêm một dòng người chạy trốn Việt Cộng tuôn về phía Saigon, bằng đường quốc lộ, bằng đường hàng không, bằng đường tàu  bè, bằng tất cả mọi phương tiện tìm ra được. Mọi đau thương chết chóc trên những con đường máu và nước mắt đó làm Ba Má tôi suy nghĩ đắn đo rất lâu cho hai từ “di tản”, hay nôm na hơn, chạy giặc.
Một hôm ông anh họ tôi là phi công tất tưởi chạy đến nhà tôi bảo Cô Chú cho các em về Saigon, Dalat sắp bị bỏ ngõ rồi. Má tôi chỉ kịp bảo chị tôi thu vén quần áo rồi đi ngay, vì chị sẽ phải thi tú tài Pháp, về Saigon chắc còn kịp thi, ở Dalat trường ốc đã đóng cửa, chẳng còn ai dạy dỗ cái gì. Chị hốt hoảng theo anh họ ra phi trường Cam Ly rồi bay về Saigon. Ở nhà lúc này chỉ còn Ba Má, tôi và con em mà thôi. Chị Hường đã xin nghỉ việc về quê cả mấy tuần trước, mặc cho Má tôi cản bảo ở ngoài Trung đang đánh nhau to, về làm gì. Chị khóc lóc:
-       Ở ngoải còn má con, con không về, ai dẫn bả chạy giặc?
 Má tôi thở dài, ừ thôi về đón bà ấy vào đây vậy. Ba Má tôi vẫn kiên tâm nấn ná cố thủ Dalat chờ đợi tin tức của chị tôi ở Ban Mê Thuột. Ông bà một phần sợ bỏ về Saigon, chị mất dấu vết tìm lại gia đình, phần khác còn cửa tiệm rồi nhà cửa, đâu thể phút chốc phủi tay mà bỏ hết cho được?

Ba tôi củng cố quyết định của mình bằng cách nhờ Ông Cai sau nhà đào giùm nhà tôi một cái hầm. Miệng hầm gần bể nước, kéo dài chữ chi đến tận cây ổi. Đám con nít tròn xoe mắt, căng thẳng chờ ngày căn hầm hoàn tất, cả lũ kéo vào thắp nến lên chơi trò buôn bán, nấu cơm trong bóng tối, chẳng sợ mùi đất ẩm ướt và tỉnh bơ coi thường những con rết dài ngoằng. Ông Cai còn dặn tụi tôi:
-       Vào hầm chơi nhớ coi chừng rắn!
Huế di tản
Nghe nói rắn kỵ với xả, tụi tôi nhảy ngay xuống vườn nhà bà Dét nhổ trộm vài củ xả đem bỏ trong góc hầm, thế là yên tâm vào chơi tiếp.
Ba tôi dùng một tấm tôn lớn làm cửa hầm, cuối chân hầm là một cửa nhỏ thông lên được Ba đậy bằng một tấm tôn khác. Má tôi khệ nệ mang vào hầm một thùng giấy đựng vài ký gạo, một cái nồi nhọ nhem, hộp quẹt, đèn dầu và bình nước. Tôi giúp Má mang vào theo một hai cái mền mỏng và tấm chiếu. Má bảo phòng khi không trở vào nhà được hay nhà bị cháy mình không chết đói. Tôi nhìn căn nhà hai tầng màu vàng nhạt, không cách nào tưởng tượng ra được cảnh nó sẽ chìm trong biển lửa!

Trường học đóng cửa từ lâu. Tôi và con em lơ phơ lất phất chơi rong cả ngày. Má bắt tụi tôi lấy sách ra đọc nhưng có được chữ nào vào đầu! Những buổi tối học thêm với Ba cũng bị bãi bỏ từ lâu, Ba không còn hồn vía đâu mà dạy chúng tôi nữa. Một tối Má đưa cho tôi một cái ruột tượng tự tay bà may, bảo tôi quấn quanh bụng xem có vừa không, rồi Má bảo bà sẽ bỏ cho tôi một chỉ vàng và nhét đầy gạo vào đó. Má còn cẩn thận viết địa chỉ của chị tôi ở Saigon vào mặt trong của cái ruột tượng. Chưa hết, Má bọc hai bản sao giấy khai sinh của tôi và con em trong bao ny lông nhét luôn vào đấy. Má bảo nếu lỡ đêm hôm phải chạy loạn, nhiệm vụ của tôi là vớ lấy cái ruột tượng này mà đeo vào bụng, vật bất ly thân của tôi phải giữ cho kỹ. Nhưng nhiệm vụ lớn hơn thế nữa là phải theo sát con em, hai chị em không được để lạc nhau. Bình thường tôi và nó cãi nhau như quạ không mỏi miệng từ sáng đến tối, tự dưng tôi được trao trách nhiệm nặng nề như thế, nó cũng nể tôi một phần, vùng vằng bảo được rồi nó sẽ đi theo tôi.  Má bảo tôi lấy cái cặp đi học, bỏ vào đó vài bộ đồ, quyển vở, bút thước, chờ nếu ông anh họ bay lên Dalat được lần nữa, Má sẽ cho tôi và em tôi theo ông ấy về Saigon. Tôi nhớ tôi đã cầm cái áo dài trắng của mình nhét vào cặp, ngộ nhỡ về Saigon đi học lại, tôi có áo mà mặc. Vài ngày trôi qua, chuyện ông anh họ lái máy bay lên được Dalat là chuyện không tưởng, Má không nói tôi cũng biết. Tôi lẳng lặng treo cái áo dài lại vào tủ và cất cặp đi.

Dalat di tản
Buổi tối hôm đó sau khi lầm rầm một trăm câu kinh với Má, và ngồi một lúc nữa trên ban công, Má bảo tôi đi ngủ. Cả ngày tôi và em tôi lăn lộn ngoài căn hầm với trò chơi mua bán bằng lá dâm bụt với hoa bìm bìm, người mệt nhoài nên giấc ngủ đến rất nhanh. Tôi đang say giấc thì giật mình choàng tỉnh vì một tiếng nổ ầm rất lớn, cửa kính rung bần bật, cả căn nhà rên lên. Tôi hốt hoảng ngồi vùng dậy. Má tôi đã đứng ở cửa mùng, ra sức lôi em tôi ra và bế nó lên tay. Má tôi hét :
-       Chạy vào hầm mau!
 Ba tôi đã đi trước, tay cầm cây đèn dầu, ngoái đầu lại quát chúng tôi:
-       Nhanh lên!
Tôi vội vàng nhảy ra khỏi giường, không kip xỏ chân vào đôi dép, đành quơ lấy cầm trên tay, rồi vơ cái ruột tượng được nhét dưới gối, lật đật chạy theo Má. Đến cửa bếp, tôi thoáng thấy bóng mấy người nhà Ông Cai đang nhấc hàng rào vào vườn nhà tôi. Tôi hốt hoảng nói với Má:
-       Con John! Má! Con John!
 John là con chó berger coi nhà rất hiệu quả, tôi không thấy bóng dáng nó đâu. Tôi gọi toáng:
-       John! John!
 Hết hồn hết vía vì những tiếng nổ liên tiếp, nó chui xuống dưới gầm cầu thang trốn, thấy tôi gọi nó phóng vụt ra rồi nhảy vào hầm cùng lúc với tôi. Ba tôi chỉ chờ có thế để đóng ụp cái tấm tôn lại. Ông Cai cầm sẵn cây đèn pin, rọi đường cho tụi tôi lom khom đi vào tuốt bên trong. Em tôi thì thầm:
-       Chết rồi, không có dép!
 Nó được Má cắp trên tay nên không kịp mò đôi dép Nhật của mình. Má suỵt bảo thôi không sao đâu. Nó ngồi thu lu trên cái chiếu Má trải ra, mắt nhắm mắt mở, mặt còn ngái ngủ. Tôi ôm con John, im thin thít trong một góc, không dám hó hé vì sợ Ba tôi đuổi John ra ngoài. Bà Cai thì thào:
-       Trời đất, còn mang chó vào hả!
 Má nạt nhẹ:
-       Thôi kệ nó đi!
 Một lát sau có tiếng Bác Hiện gọi ngoài cửa hầm. Ba tôi đẩy tấm tôn ra đón nhà bác vào. Căn hầm chật chội hẳn, tôi và John lại càng ráng thu nhỏ hơn nữa. Tôi nghĩ đến con mèo. Bây giờ mà bảo phải đi ra tìm con mèo, mọi người sẽ mặc sức mà quát tôi! Ông Cai mở hé tấm tôn đậy nắp hầm phia sau cho thoáng. Trời Dalat tháng Tư lạnh buốt, phả hơi sương ẩm ướt vào căn hầm. Tôi bỗng run lên vì sợ nhiều hơn là vì lạnh. Đàn gà trong chuồng lục đục, sục sạo. Những tiếng nổ ầm ầm làm chúng tỉnh giấc và bắt đầu kêu quang quác.
Người lớn thầm thì:
-       Pháo kích ở Cam Ly!
-       Nổ kho đạn bên Tiểu Khu!
-       Hồi chiều tui thấy lính bỏ chạy hết rồi!
-       Tụi Võ Bị rút đi hết hôm qua!
-       Trên Ty Cảnh Sát không còn một ai…
-       Có ai thấy Việt Cộng về không?
Con trai lớn của Ông Cai là nhân dân tự vệ, con trai lớn của Bác Hiện là giao liên Việt Cộng. Đêm đó, cả hai ông đều náu mình trong căn hầm chật chội của nhà tôi, vẻ mặt lầm lì, không nói không rằng. Chẳng ai biết được hai ông nghĩ cái gì.

 Những tiếng nổ ầm ầm vẫn tiếp tục dội về. Mặt đất rung lên từng chập. Thỉnh thoảng Ba tôi hé cửa hầm nhìn ra ngoài. Bầu trời chớp đỏ lóe sáng một góc phía Cam Ly. Dalat đang hấp hối.


Sương trắng
Ngồi đến năm giờ sáng, tiếng nổ chậm dần và ngưng hẳn. Nhà Ông Cai rời hầm trước tiên, sợ nãy giờ ngồi trong này, nhà cửa bỏ chạy không kịp khóa kẻ trộm vào. Tôi nghĩ, kẻ trộm nào còn hồn vía mà lấy cắp được cái gì trong buổi tối đó. Sau đó nhà Bác Hiện cũng rút về. Ba tôi bảo ngồi thêm một lát nữa rồi  mới cho Má và chị em tôi ra khỏi hầm, lò mò đi vào nhà lại. Điện vẫn chưa có, tôi đi theo ánh đèn dầu của Má, trở lại căn giường giờ đã lạnh ngắt. Con mèo trong góc bếp thò đầu ra nhìn tôi. May thật! Tôi sợ nó hoảng tiếng nổ, bỏ chạy lung tung rồi bị lạc.
Sáng hôm đó Dalat thức giấc với màn sương trắng êm ả và bình yên như thường lệ. Những hạt sương nặng rơi rụng trong ánh nắng lấp lánh như những giọt pha lê. Dalat của buổi sáng ngày 2 tháng 4 năm 1975 là một thành phố vô chính phủ, Việt Nam Cộng Hòa bỏ chạy, Việt Cộng chưa vào đến. Cả thành phố đóng cửa im lìm. Mọi người nhìn ngó nhau ngơ ngác. Tôi nhớ ngày hôm  sau những người thân Cộng (Má tôi gọi thẳng toẹt là đám ăn cơm Quốc gia thờ ma Cộng Sản) cùng với các Cha bên nhà thờ và các Thầy bên chùa phải lái xe jeep xuống Đức Trọng bắc loa gọi có ông Việt Cộng nào không về tiếp quản Dalat. Quốc lộ 20 về Saigon đã bị cắt, đường đèo Ngoạn Mục cũng không đi lại được. Dalat bị cô lập hoàn toàn và thất thủ vào tay Việt Cộng rất dễ dàng. Sau này đọc báo bên thắng cuộc,kể chuyện các sư đoàn Việt Cộng kéo quân ồ ạt tấn công Dalat từ ngả Bảo Lộc, Di Linh lên, từ Trại Hầm đổ qua, tôi chỉ có thể nói:
-       Xạo!

Số phận của từng người dân Dalat, hơi thở của cả thành phố Dalat đã bắt đầu khác đi rất nhiều sau cái đêm hỏa châu sáng lòa đó.

Má tôi lúc ấy trạc tuổi tôi bây giờ. Tôi thường hay hoảng lên mỗi lần gọi điện thoại cho hai thằng con mà không thấy chúng trả lời ngay, tôi lo ngay ngáy không biết chuyện gì xảy ra. Má tôi khi ấy có bảy người con, qua một đêm đạn pháo rực trời, năm đứa lớn thất tán ba bốn ngả, chỉ còn hai đứa nhỏ nhất bên cạnh. Tôi có hỏi Má làm sao sống nổi qua những ngày những đêm với năm đứa con không biết trôi nổi ở đâu, lưu lạc chốn nào. Má bảo Má không biết, lúc đó đầu óc rối mù, nhớ gì nghĩ gì làm nấy, không còn suy nghĩ kỹ được cái gì cả. Má sợ lắm, mất ăn mất ngủ, lo đến quặn ruột nhưng không biết phải tính toán ra làm sao, đành phó mặc cho trời vậy. Còn Ba, nếu có những nếp nhăn mới hằn trên mặt hay một mảng tóc bạc trắng vì những ngày này, tôi sẽ không lấy làm ngạc nhiên.

Lưu lạc
Tôi ngày ấy mười hai tuổi. Bốn mươi năm sau tôi ngồi viết những dòng này, trên thế giới vẫn còn hàng triệu đứa trẻ nửa đêm bị đánh thức bởi tiếng bom đạn, tất ta tất tưởi chạy vào căn hầm ẩm ướt mà không hiểu vì sao lại có chiến tranh, vì sao người với người mãi cứ nhẫn tâm nhả đạn giết chết nhau cho kỳ được. Đêm hỏa châu ấy đẩy tôi về phía bên thua cuộc, dù vậy tôi vẫn mừng vì ít nhất trẻ em Việt Nam thôi không còn nhếch nhác, lếch thếch chạy theo bố mẹ trên những con đường di tản đầy máu và nước mắt, trẻ em Việt Nam cuối cùng có được một giấc ngủ tròn đầy không còn tiếng bom, tiếng súng đánh thức chúng dậy một cách phũ phàng nữa, và trẻ em Việt Nam thôi không còn ngơ ngác bên những xác người nằm xuống, tuyệt vọng gào khóc gọi cha gọi mẹ. Bốn mươi năm rồi, ánh sáng của hỏa châu đã phai mờ dần trong ký ức, nhưng tiếng rì rầm đọc kinh cầu an của hai mẹ con trên ban công đêm nào và màn sương trắng của Dalat vào rạng sáng ngày hôm sau vẫn còn đọng mãi trong lòng. 

 

Lan Hương

Fort Worth 03/25/2015

Friday, March 20, 2015

Khởi Xuân (Hương Quỳ)


Cái mắt cá chân bị trật vì tội tự té trên piste trượt tuyết khiến tôi phải dừng lả lướt trên các triền núi. Tính hay đi bị nhốt ở trong nhà, chịu sao thấu, nhất là với một tuần lễ trên núi cao, được  trao tặng bầu trời xanh biếc hòa với màu trắng của tuyết trùng trùng điệp điệp khắp nơi. Cái hạn phải bị trẹo chân theo tôi để chơi một vố chót vào ngay chiều 30 tết, khiến tôi không còn khả năng leo tuốt lên đỉnh núi cao để đón giao thừa. Nhưng lại phải quay qua cám ơn đứa  em lần này lựa ngay cái nhà ở dưới chân núi, cho bà chị còn ngồi được ở balcon ngập nắng ngắm nhìn dãy núi to sừng sững trước mặt mình, ngắm đoàn người muôn màu sắc tô điểm khắp nơi. Ngồi chán, tôi ráng đi cà nhắc trên con đường mòn ven theo dòng suối không bị đóng băng, uốn lượn qua các khu nhà nghỉ, thơ mộng ra trò với những cành cây còn đọng đầy tuyết trắng. Đâu đó trên đường đi hoặc dưới mái nhà, nghe tiếng chim hót lảnh lót, dấu hiệu đầu tiên của mùa xuân.

Trở về lại Bỉ, trời cũng bắt đầu nhiều nắng, đã đến lúc thu dọn lại cái sân thượng nhỏ bé của tôi nơi đầy chậu hoa lớn nhỏ các cỡ đang  rụi đi hết với những tháng lạnh vừa qua.

Xưa kia, người hàng xóm già sau lưng nhà tôi tự đóng lấy một chuồng chim lớn, đầy những con két và những giống chim khác đủ màu sắc. Các đàn chim khác tự do bên ngoài cũng kéo đàn kéo lũ đến ăn ké nhưng thức ăn của chim vung vãi trong lồng. Ăn no xong, chim bắt đầu cất tiếng hót, khiến nhiều buổi sáng nằm êm ấm trong mền, trong tôi bỗng dậy lên cảm giác  êm đềm vì biết dù bầu trời còn đang ủ dột hoặc rả rích mưa, thì mùa xuân đã đến đầu ngõ. Chim cũng không phải ngoan hiền như các thiên thần đâu, vì chúng còn đến xới tung các chậu cây của tôi vừa được thay đất mới. Đặc biệt có giống chim nào đó quyết định chọc tức tôi bằng cách chọn đúng một chậu hoa để đào bới tan hoang. Đến cả chục lần với cuộc chiến thầm lặng đã từ mùa thu, chim bới ra, tôi trồng lại. Mỗi lần đi làm việc về, cây lại tơi tả khắp nơi, tôi cũng bõ công đào xới đất trong chậu để giải tỏa thắc mắc sao chim chỉ chọn đúng chậu này  dù không thấy  bóng dáng một em sâu đất nào cả mới lạ. Lại trồng lại, cẩn thận úp một cái rổ lên. Hôm sau rổ đi đàng rổ, cây đi đàng cây. Mà cả cây hoa này cũng lì lợm không kém, sau bao nhiêu lần bị mất "nhà ở ", vẫn xanh tươi lá, mọc thêm mớ rễ non để chống chọi với...đời. Tôi quyết định rào lưới quanh chậu, yên ấm được một thời gian, không biết rằng  lưới đang được dần dần nhấc lên một góc! Tuần rồi cây chuẩn bị đơm hoa cho nắng xuân đang tràn đến, thì lại tả tơi khắp nơi trên sân. Tôi tức quá, lấy luôn một ngày nghỉ ngồi rình. Mấy con chim bồ câu mập ú  trên nóc nhà hàng xóm gần đó, nghiêng ngó mắt nhìn tôi, xong thản nhiên êm ấm trong tổ, như xác định với tôi "Không phải chúng em đâu" . Tôi nhìn mấy thân hình ì ạch, chắc không đủ sức đứng vững trên thành chậu, nói gì đến chuyện đào xới. Một mớ chim sẻ bay ngang, chao lượn, nhưng không dừng bên bất cứ chậu đất nào. Sau rốt thủ phạm xuất hiện. Một con chim đen mỏ vàng như quạ, nhưng nhỏ hơn, đến hân hoan đào xới văng tít mù trong chậu cây mà không nhặt nhạnh gì hết. Tôi xuất hiện, chim vụt bay đi, không nghe thấy tôi nhắn với theo là lần sau chim còn mò đến, sẽ được xơi một viên đá vào mình. Chậu hoa được quăng vào thùng rác, từ đó, không thấy nó xuất hiện nữa. 

Gần nhà tôi, có một công viên khá rộng, nhưng hồi mới dọn về đây ở, tôi rất hiếm khi đặt chân vào. Có lẽ do kỷ niệm một lần đi dạo, mấy chú chó được thả lỏng quay vào cắn nhau, rồi các chủ của chó cất cao giọng còn hơn cả tiếng sủa. Tôi tránh đám cãi nhau, mắt lấm lét, chỉ sợ chó nhìn thấy tôi, buồn tình rượt theo cạp một miếng, lại lãnh vài chục mũi thuốc vào da bụng để ngừa chó dại thì kinh lắm, nên không đi vào công viên nữa. Chỉ mới gần đây, trên đường đi đến các sân tennis, tôi mới thấy công viên đẹp ra trò  với  những lần thay lá hoặc những lần tuyết rơi.

Lần này, trên đường đi tập thể dục cho cái  chân đau, tôi quyết định đi vào đấy tìm dấu hiệu mùa xuân đến. Niềm hân hoan trổi lên khi ngay bãi cỏ trên lối vào, vẫn còn lại vài bụi hoa xuyên tuyết ( perce neige ) với  màu trắng đơn sơ, mong manh, nhưng lại là loại hoa đầu tiên dám vươn mình lách qua thềm lá mục, khi tuyết vừa tan đi. 

Theo dốc đồi đang tràn ngập nắng, là crocus và narcis, những củ màu nâu xấu xí, ngủ hết mùa đông, thu nhặt không biết từ những nguồn dự trữ nào trong đám đất đông cứng, chỉ đợi một vài hôm ấm trời, sẵn sàng tung ra những cánh hoa đậm màu tươi tắn.  

Những cánh đồng bạt ngàn sắc hoa vàng của Jonquille đã từng làm tôi mê mẩn trong phim Docteur Jivago, tôi đã tìm thấy ở đây. Thành phố còn mạnh tay trồng suôt dọc những bãi cỏ trống trên đường vào thành phố, chỉ một vài tuần nữa, hoa sẽ rung rinh trong gió như lời vẫy chào những dòng xe cuồn cuộn vào trung tâm, tự nguyện hay bắt buộc vào điểm đến như nước được đổ qua phễu vào một cái lọ khổng lồ.

Xưa kia còn ở quê nhà, nhân một dịp bị bắt đi trồng cây hoa anh đào Nhật (hình như trong phong trào trồng cây để nhớ ơn Bác Hồ), chung quanh cơ quan tôi làm việc. Tôi trồng cây, mơ mộng đến một ngày kia, cơ quan mình sẽ nở hồng rực rỡ tháng đầu năm. Thực tế chả có đến một cây nào sống sót, chắc vì không biết cách chăm sóc sau khi trồng. Còn mỗi cây mimosa được tôi bảo vệ khỏi những nhát cuốc xới làm vườn tăng gia sản xuất cho đơn vị, đã biến thành một tàn cây lớn, nở hoa tươi tắn vài năm sau.

Tôi cũng từng mơ mỗi con đường ở Dalat sẽ mang tên một loại hoa chứ không cứng nhắc tên của các bậc anh hùng. Qua đây, ước mơ của tôi thành sự thật, nhờ những bước chân lang thang qua các khu phố quanh nhà, mới biết có một góc phố nhà cửa xinh xắn được chăm sóc chu đáo, chỉ mang rặt tên những loại hoa: đường Pensée , đường Magnolia , đường Mimosa ... 

Kiến trúc nhà ở Bruxelles muôn hình muôn vẻ, nhà tôi ở, lại là một trong những phường có kiến trúc nhà đẹp nhất của thành phố. Thuở hoàng kim của đầu thể kỷ thứ 19, các thương gia tụ họp về đây, cửa ngõ  phân phối hàng hóa vào trung tâm thành phố, nên hình ảnh tượng trưng cho nơi đây là con lừa (cité des anes ), tiếc rằng hình ảnh tượng trưng cho khu phố được vẽ trên tường ngôi nhà ngay ranh giới chia các hạt, tôi chưa kịp đi chụp hình, thì nó vừa biến mất để thay thế cho một khu nhà mới. Thỉnh thoảng trong tuần, một cỗ xe có lừa  hoặc những con ngựa già đáng lẽ phải kết thúc đời mình trong lò sát sinh, được kéo đủng đỉnh qua các đường phố quanh công viên để nhặt những bao rác từ vườn tược của dân bỏ ra. Tôi thắc mắc với chi tiết người ngồi chăn dắt lừa ngựa không biết tại sao vẫn phải đội mũ bảo hiểm? Với vận tốc 10km/giờ, té đi đâu được chứ ?

Thành phố tôi ở chưa đến độ tràn ngập dân số, nên chưa nhiều lắm những khối chung cư nhà ở, như tôi vẫn nhìn một cách hãi sợ khi đang đi trên vòng đai của thành phố Paris . Thăm Bruxelles có lúc cần đi bộ để từ tốn ngắm nhìn, những đường nét uốn lượn mềm mại trên những balcon bằng sắt hoặc các khung cửa gỗ theo mẫu của Horta, những kiến trúc của vùng Normandie, của thời Victoria bên Anh với các khung cửa phòng khách được xây lồi ra theo hình bán nguyệt, hoặc những khung kính màu vẽ hoa hay hình người màu sắc hết sức hài hòa của trường phái art décor. Chứ đâu lại chằn chặn một kiểu giống hết nhau màu đã xám như thành phố Edinburg ở Scottland, hoặc vô cảm như những khối nhà xây to lớn vuông vức của thành phố Berlin sau chiến tranh.

Tôi sẽ có những người bạn từ xa đến thăm, với mức độ đạt kỷ lục đi hết các thành phố lớn của Âu Châu trong vòng một tuần lễ, tôi tự hỏi lòng, người bạn nào sẽ tìm được thời gian đi theo tôi với những bước chân thong thả qua các con đường, để  tôi chia xẻ những màu sắc hình hài nhà cửa, những ô gạch men đủ màu sắc gắn trước các cửa nhà nghệ nhân, những hàng rào cây houx cổ xưa cùng thời với nhà cửa xây dựng, đầy trái đỏ mỗi lần Noel đến. Chả có, bằng chứng là tôi vẫn độc hành ...

 Mùa xuân, cũng được báo hiệu bằng các lễ hội hóa trang (carnaval), khới đầu từ thành phố Louvière, mới giữa tháng giêng đã trống kèn um sùm để xua bóng tối mùa đông. Ở đây có nhân vật hóa trang Gilles đã đi vào di sản của Unessco. Tôi đến đây tình cờ một lần cùng với hội đi bộ ngày chủ nhật, thấy cũng chỉ muốn nhảy múa theo tiếng guốc gỗ nện nhịp nhàng và vòng lục lạc đeo quanh bụng Gilles reo lên từng hồi vui vẻ.

Kỷ niệm của gia đình tôi, có lẽ là Carnaval của thành phố Halle. Phần lớn là trong cái lạnh còn cắt da hoặc những cơn mưa phùn nhẹ của tháng 3, kéo dài cả ba ngày. Đám xe hoa rước qua con phố chính sặc sỡ màu sắc và inh ỏi tiếng nhạc, quăng cho đám đông một cách hào phóng kẹo, cam, hoặc những đám giấy confetti như những đám mây muôn màu. Những đoàn majorette múa với đồng phục điển hình cho từng vùng, tung những cây gậy múa và chụp bắt lại một cách nhịp nhàng theo nhịp trống vẫn làm trên môi mình bỗng toét ra một nụ cười hớn hở không duyên cớ. 

Và không thể không nhớ đến chợ bán giống hoa ở Halle. Mỗi sáng thứ năm hoặc sáng thứ bảy hàng tuần. Hàng hà sa số hoa, moi hết không biết bao nhiêu tiền của chị em tôi, năm nào cũng hăng hái mua, hăng hái trồng trong căn vườn rộng của nhà Ba Má tôi, cho thỏa với ước mơ vườn tược dạo tôi còn phải ở tuốt tầng hai  nhà chung cư, chỉ có mỗi một rẻo balcon nhỏ treo  được đúng hai chậu hoa! 

Giờ thì tôi đã có thêm một căn nhà đồng quê, lúc tuổi đời mình cũng đang muốn xế chiều. Nên đã biết nhìn xa cho chục năm nữa, sẽ có lúc không còn tự chăm sóc được  vườn tược. Các hàng rào được chặt cho thấp xuống, trồng hết cả vườn loại hoa rụi đi vào mùa đông, nhưng sống lại vào mùa xuân. Vậy mà lúc nào cũng tiêu tốn hết một ngày weekend để đào xới và nhổ có dại với một cái lưng và hai đầu gối bắt đầu kêu mỏi, và mỗi lần đi qua khu chợ này, vẫn ngứa tay mua dăm ba loại hoa trồng chỗ này và chỗ kia như một thói quen không bỏ được.

Lần lang thang hôm nay, tôi còn rơi vào một đám ồn ào với rượu bia và quần áo toàn một màu xanh lá cây để kỷ niệm lễ Saint Patrick của Irlande. Lại nhớ đến vài năm trước, với chuyến đi camping nhớ đời trong một làng da đỏ tại Grand Canyon.

Grand Canyon ... đến nơi vào buổi tối, nhìn hình vidéo của đứa em đến trước quay với cảnh tuyết đang rơi vẫn không hình dung được. Chỉ đến sáng hôm sau, bước chân ra khỏi nơi ở, ngỡ ngàng với cả một khung cảnh hùng tráng hiện ra trước mắt mình. Tuyết rơi đêm hôm trước đọng trên các cành cây chênh vênh trên bờ vực. Màu đá đỏ của các khe núi đẹp đến thắt lòng, và dài đến hút tầm mắt. Đến lúc theo đoàn đi camping đi xuống đáy hẻm núi, nhiệt độ khác nhau cả 18 độ, áo sống cởi ra vác theo rã rời cả tay. Đường đi dài mãi không đến, nhưng không lả lơi vì nắng và không khát nước cho mấy vì hẻm núi tạo ra đầy bóng dâm. Tôi đi với cảm giác bỗng dưng mình bị thu nhỏ lại, và đang lang thang ở đáy một cái chai khổng lồ !!!!

Sau bao ngày nằm lều và tắm suối, dòng suối với màu nước xanh dương rất lạ, và những lần đi dạo quanh làng người da đỏ, cũng nhìn thấy mùa xuân đang đến trên những cây đào trổ hoa cạnh những bụi gai màu xám. Tôi cũng có lần ngồi trên một bờ đá bên đường, nhìn khoảng trời cao xanh ngắt cắt theo hình hẻm núi, nhìn những chiếc máy bay trực thăng đến và đi để chuyên chở hàng hóa, nhìn những bóng người ngồi bất động trước cửa nhà, không biết đã tỉnh chưa sau chầu rượu tối qua, bỗng thấy mừng vì mình chỉ đến rồi đi, vì cuộc sống ở đây sao như ngừng trệ lại. Chúng tôi theo con đường tải hàng và thư từ của đoàn lừa để leo lại lên trên, và chỉ cần vài tiếng đồng hồ lái xe sau đó, chúng tôi đã  về đến chốn phồn hoa Las Vegas tràn ngập ánh đèn.

Ngày lễ mừng thánh Patrick tôi biết được khi ở gần một khu du lịch ở Las Vegas. Buổi sáng đi thăm đập nước Hoover Dam hùng vĩ, nơi đã ngăn dòng sông Colorado ngừng chảy, nghĩ đến dòng sông Cửu Long bên quê nhà với đập thủy điện của Tàu ở trên cao. Lúc nào cũng phải có một bên lãnh thiệt thòi, số phận của những kẻ thấp cổ bé miệng, lịch sử đã chứng minh. Buổi chiều bước vào cửa hàng bán lưu niệm, chỉ thấy toàn màu xanh  lá cây được bán giảm giá, mới biết có ngày lễ này.

Đất trời chuyển mình, thay màu áo mới, khiến trong lòng ai không muốn cũng như vạn vật, gỡ bỏ những vướng víu muộn phiền của quá khứ, của những ngày tháng qua, để phơi phới lòng xuân cho những ngày sắp đến, những chuyến đi sắp đến, đi đến mọi chân trời góc biển, sau lại ngộ ra, cái mình muốn tìm kiếm, hóa ra lại ở rất gần, như ý nghĩa của những ngày khởi xuân, có kẻ bước qua mà không để ý tới, nhưng tôi, mùa xuân nào cũng là một mùa xuân đem đến biết bao rộn ràng.

 Hương Quỳ

Bruxelles (18/03/2015)