Pages

Friday, July 17, 2015

Phòng Chung Phòng Riêng (Tố Mai)




Nhân đọc bài của Hương viết về chuyện ra riêng năm 13 tuổi  với căn phòng bác Thìn ở nhà số 7  Dalat tôi chợt tự hỏi  thế căn phòng riêng đầu đời của tôi là  ở đâu và bao giờ ? Tôi cũng chợt bàng hoàng nhận ra rằng  mãi đến năm 40 tuổi  tôi mới  thực sự có một cái phòng riêng cho mình , mà không phải ở Dalat hay  Saigon ,  trên quê hương của mình  mà  là ở nơi  miền đất  mới đầu là tạm dung , sau này dần  dần đã trở thành quê hương thứ hai của mình  . Nói thế để đừng có ai phải ganh tị là sao mình không có được  một căn phòng riêng cho mình thế này !!!
Mà thật ra bây giờ ngồi ngẫm nghĩ lại  tôi  cũng chẳng lấy gì làm phật lòng về chuyện đó  , chẳng hề tiếc nuối hay hờn trách gì tại sao mình không có ; chỉ đơn giản  là mình không có thế thôi  , cũng chẳng bao giờ tự đặt cho mình  câu hỏi  . Mà chỉ ngạc nhiên  , ừ nhỉ nửa cuộc đời mình vẫn luôn ở chung với ai đó , khi thì người dưng , khi thì cùng người  trong gia đình  , rồi cũng có sao đâu nhỉ ? chuyện ấy không ảnh hưởng đến những dự kiến về tương lai  của tôi ; tôi vẫn bình an thực hiện được những ước mơ của mình và rồi ngày nay , khi đã bước qua bên kia con dốc của cuộc đời  tôi  tôi rất hài lòng với những gì mình đă có được cho đến hôm nay . Có lẽ vì vậy mà tôi không phải là người tôn thờ chủ nghĩa cá nhân tuyệt đối  ,  ngược lại tôi chủ trương  chan hòa với mọi người chung quanh với cái nhìn thoáng rộng  mà ngày này thường gọi là Open  mind .

Lúc còn nhỏ sinh ra trong một đại gia đình ( một tiểu gia đình trong một khối  nhiều gia đình túm tụm lại với nhau thì đúng hơn )  lúc nào chung quanh tôi cũng có đầy người từ người lớn đến   người nhơ nhỡ và con nít  , ở nhiều lứa tuổi khác nhau , một thứ «  melting pot » đầy thú vị  và cả thi vị nữa . Rất tiếc lúc đó tôi còn quá nhỏ để có thể ghi lại hết ; bây giờ ngồi nhớ lại thì cái còn cái mất  , quá khứ dường như đã quá xa và đầu óc tôi cũng bắt đậu mụ mằn đi mất rồi !  Nhưng trở lại chuyện phòng riêng  thì  trong hoàn cảnh đó làm gì mà  ai có được  cái  gọi là riêng tư đâu ! Từ nhà số 12 và số 10  , sau đó tất cả  lại dính chùm kéo nhau  qua nhà số 7 đã được khơi  thêm lên một tầng nữa , quân số chỉ có tăng chứ không có giảm !  Ở đây mỗi gia đình là một phòng  , bếp chung , phòng ăn , phòng giặt , phòng vệ sinh đều chung  hết , đại khái như những cái « kot »  cho sinh viên thuê bây giờ  . Riêng gia đình tôi thì  chất hết lên 2 cái giường ,một cái là giường Ba , một cái là giường má rộng hơn như cái thuyền Noé vây . Tôi khi đó đã lớn nên phải nằm giường Ba ,  không được bén mảng đến giường Má lúc nào  cũng lúc nhúc con nít !  Những gia đình khác thì tản mạn đâu đó nơi các căn phòng khác , riêng trên lầu là nơi ngự trị của Me và bác Nội  vớí  một cái giường đại tôi chưa từng thấy bao giờ , ở đây người nào mà không có chỗ ngủ thì cứ việc vén mùng chui vào , khi nào cũng có chỗ để ngả lưng . Tôi với chị  Hà đôi khi cũng lén xin lên nằm chung với mấy bà chị họ đã lớn và có nhiều chuyện hấp dẫn để kể , chúng tôi xem như  là  đặc ân được ngủ chung với mấy chị .

Quây quần với nhau được ít năm thì gia đình bác Tự bắt đầu ra riêng  , bác đã cất được một cái nhà to đùng ở ngoài hàng , vừa làm nhà hàng ăn , vừa có đủ chỗ chứa cả 10 người con và cả Me cũng  quyết đinh đi theo bác , người  em trai cầu tự yêu quí của  Me . Còn lại gia đình bác Thìn và bác Nội , và mấy chị Thúy , Dung , Hạnh vẫn còn nấn ná ở lại nhà số 7  một thời gian nữa  trước khi lấy chồng  và cũng ra riêng  .
Rồi đến bác Thìn cũng theo gia đình anh Phương  về Cần Thơ , và cuối cùng  tôi không còn nhớ năm nào  thì bác Nội với anh Doãn cũng mua được căn nhà đường Hòang Diệu và dọn đi luôn . Khi đó gia đình tôi mới riêng mình một cõi , trong căn nhà rộng thênh thang  . lẽ ra thì tôi phải được một căn phòng riêng rồi , nhưng  lại đúng lúc tôi thi đậu vào Y Khoa và phải về Saigon  học .
 Đây mới là một  điều hoàn toàn mới lạ với tôi . trước giờ chỉ quấn quýt với gia đình , ít tiếp xúc với người ngoài , Saigon chỉ biết có Bà Bông và Cậu Thọ . Cuối cùng thì Ba Má cho tôi ở trọ nhà bác cả Kỳ  , cũng là chỗ thân tình với bà Bông , lại là bố vợ của anh Tinh , con bác Nội , như vậy cũng có tí chút họ hàng cho tôi bớt sợ . Ngày đầu xách va li đến nhà bác cũng thật bỡ ngỡ vì chưa quen ai hết , mặc dù 2 bác đón tiếp tôi rất là chân tình . Nhất là bác trai khi đó đi làm công chức ngày 2 buổi bằng xe mobylette  , trưa ghé về nhà ăn cơm  và tôi là người duy nhất được bác kêu lên ăn cơm  cùng mâm với bác . Những người khác trong gia đình không hiểu sao đều né bác  tối đa , chẳng ai chịu ngồi ăn chung với bác mà chỉ túm tụm với nhau dưới hàng hiên  nhà bếp , bên cạnh cái giếng trời và bể nước để rửa chén và giặt giũ .
Nhà bác có 4 cô con gái , chị Thúy lấy anh Tinh , chiếm một phòng ở dưới nhà  , nhưng mọi người vẫn phải đi qua đây  khi từ dưới bếp lên nhà trên và đi ra đường nên là chỗ qua lại thường xuyên của  mọi người .  còn Ánh , Nhung , Phượng  cùng bác gái và bà cụ mẹ bác trai được giao cho nguyên một căn gác trên  lầu , nay có thêm tôi vào nữa thì cũng chẳng sao , tối đến cứ  việc trải 2- 3 cái chiếu xuống sàn nhà  và giăng mùng ra ngủ chung với nhau  , xếp lớp như cá  mòi sardine của Maroc vây ! Những đêm Saigon nóng nực , quạt trần bay vù vù trên đầu , khỏi cần giăng mùng đuổi  muỗi , nằm trên chiếu mà ướt hết lưng , lúc đó mới nhớ đến cái lạnh của Dalat cùng chăn êm nệm ấm làm sao ! Thi thoảng mới có cơn gió lùa vào từ 2 khung của sổ nhỏ mở  xuống cái giếng trời chỗ rửa chén . Chỗ này là chỗ tôi thường ngồi nhổ lông quặm cho bà cụ mẹ của bác trai  , bà cụ bị toét mắt kinh niên , nói hay rít lên với các người khác , nhất là với bác cả Kỳ gái  ( con dâu ) và chị Ba vợ anh Chử ( con thứ của bac cả Kỳ ) nhưng riêng với tôi thì bà rất tủ tế và rất chiều tôi ,  chả là tôi chịu khó ngồi hàng giò đế nhổ lông quặm và tóc bạc cho Bà . Với bà tôi đã học được  lòng kiên nhẫn  và  cách đối xử với người già . Sau  ngày 30-4-75 tôi được biết hai Bác đã gửi bà cụ về quê ngoài bắc cho bà thăm lại xứ sở quê hương và bà đã mất ở đây .
nhà Bác Cả Kỳ
Còn góc học tập của tôi ư ? Là một cái bàn kê trong góc, cũng trên căn gác làm phòng ngủ chung đó . Tôi nhớ phần lớn thời gian tôi thường nằm bò trên chiếu để học chứ ít khi ngồi bàn vì góc tối có nhiều muỗi chích , thà năm dài trên chiếu và kéo sát  đến khung cửa sổ mở  ra giếng trời , vừa sáng sủa  , vừa mát mẻ . Từ căn gác lửng  này có một hàng gạch lỗ mở xuống  phòng  khách  dưới nhà ; nơi đây là đài quan sát của tôi để xem khách khứa ra vào  cùng hoạt cảnh 2 gia đình sinh sống bên dưới là gia đình anh Tinh , chị Thúy , và gia đình anh chị Chử  , con thứ bác cả Kỳ . Cũng từ đài quan sát này tôi thường canh để đón ba tôi mỗi tháng xuống Saigon cất hàng . ba thường ở bên nhà bà Bông , và buổi tối mới  sang thăm tôi và cũng để gửi tiền trọ của tôi cho bác cả Kỳ . Khi thấy bóng dáng nhỏ  nhắn của ba mở của bước vào hàng hiên tôi mới từ trên nhà phóng xuống để chào ba . Ba chỉ hỏi thăm tôi sơ sơ rồi quay sang nói chuyện với bác cả Kỳ trai . mà biết nói gì với ba nhỉ ? Tôi vốn đã không gần Ba lắm để có có thể tâm sự vắn dài điều gì . Không lẽ lại kể lể những vui buồn của đời sống sinh viên xa nhà , ba làm sao mà hiểu  được . Nhưng khi nào là má xuống thì cứ như mở  hội trong lòng , tôi cũng chẳng tâm sự gì nhiều với má nhưng thích nhất là được má dẫn  ra  chợ  Bến Thành để mua sằm quà cáp cho các em  ở nhà .
Từ căn phòng ngủ chung này có mấy bậc thang để lên một gác lửng nữa là nơi để bàn thờ. Ngay giữa có một cái tủ thật to bày hương vị các bậc tổ tiên của giòng họ nội ngoại , thẳng góc bên trái là một bàn nhỏ hơn để thờ Phật . Đây là giang sơn của bác cả Kỳ gái , chiều nào bác cũng lên thắp nhang đánh chuông gõ mõ. Thực ra tôi không thấy bác tụng kinh bao giờ  nhưng chắc chắn là bác có mở cassette và cho chạy cuốn băng đọc  kinh  Nam Mô A Di Đà Phật với tiếng mõ tiếng chuông gõ đều đặn . Anh Tinh thường diễu bác là băng  «  Diễm Kệ » để nhái lại bài Diễm Xưa của  Trịnh Công Sơn lúc đó đang thịnh hành nhất ở Saigon . Bác  không đọc kinh nhưng vẫn chắp tay vái lạy cùng với  tiếng xuýt soa Nam Mô trong  màn khói hương nghi ngút .Điều còn gây ấn tượng cho tôi nhất là ngày rằm mùng một Bác thường mang về những đóa  hoa hồng màu cánh sen , bứt ra từng cánh và bày  lên dĩa để lên bàn thờ . Tôi chưa từng thấy cách cắm hoa như vậy bao giờ .
Mai , Nhung , Ánh  ở  Sở Thú Saigon
Một ngày kia khi leo lên khu trang thờ của Bác tôi chợ khám phá ra  đằng sau cái tủ thờ  vĩ  đại là một khoảng trống ngập ánh sáng ; là vì trên đầu là một khung của sổ mở ra trên mái nhà  và trên cao là bầu trời xanh ngắt , cộng  với những luồng gió lùa vào lồng lộng . A Ha , đây là chỗ ngồi lý tưởng để gạo  bài học thi đây ! Thế là tôi rinh cái bàn và một cái ghế lên kê vào  chố trống , nghiễm nhiên trở  thành góc học tập lý tưởng của tôi , và tôi còn đặt tên là Gác Gió . Nơi này ít người bén mảng tới trừ bà cụ Nội thường lò mò với đôi mắt toét đi giám sát mọi nơi mọi chốn và Phượng  thỉnh thoảng cũng lên thăm tôi để chị em cùng tâm  sự vắn dài , xa hẳn cái ồn ào của thành phố và cái xôn xao của sinh hoạt gia đình ở dưới kia chỉ cách nhau 2 căn gác .Có  thể đây là một góc riêng tư nhất của tôi cho đến lúc đó : ở đó chỉ có một cái bàn ngập sách , một cái ghế , một cái đèn bàn . sau này không biết tôi kiếm đâu ra được  một cái ghế bố nhà binh , hình như là do anh Tinh cung cấp  , thế là thành  căn phòng đằng sau cái tủ thờ . Chỗ này tối ngủ rất mát vì gió lồng lộng cả ngày đêm  , nhưng  hiềm một nỗi là có muỗi , nhiều khi bị pháo kích nhiều  quá tôi phải chạy xuống nộp mình vào  cái giường chung  bên dưới .
Vài năm sau đó , khi cậu Thọ xin được chỗ cho tôi vói Hà trong Đại Học xá Trần Quí Cáp thì tôi hân hoan dọn đi . Thật ra tôi cũng có nhiều cảm tình với gia đình bác cả  Kỳ và mọi người từ bà cụ nội khó tính đến mấy đứa cháu nhỏ lắt nhắt đều quí mến tôi nhưng tôi vẫn thích ở trong môi trường  đại học của mình vì ở trong nhà này , trừ tôi với Phượng ra , không kể bọn con nít lau nhau thì không còn ai đi học cả .
Ở Đại Học Xá , những tưởng  rồi cũng sẽ được  một căn phòng  riêng cho ra hồn , ai ngờ đâu nơi đây là một cư xá bình dân  mà các phòng không phải cho 1 hay  2 người mà cho 10 người trở lên . Tôi được xếp ở phòng H , căn phòng ở trên lầu cao nhất ; mỗi đứa sở hữu một cái giường sắt , một cái tủ cao để đầu gường , một cái bàn nhỏ ở chân giường , quần áo treo  chung ở một góc đâu đó . Bước vào đây  như  bước vào một căn phòng ở bệnh viện  với một dẫy giường xếp song song  , đến cuối phòng quẹo phải là phòng tắm và phòng vệ sinh chung  . Phòng H này thật ra cũng chỉ là một cái gác lửng ,thành thử  nhìn xuống bên dưới là một căn phòng rộng gấp đôi và với số người cũng gấp đôi . Thế là có thể nói chuyện thông tầm từ trên xuống dưới với nhau , cũng vui chán !
trong phòng H đại học xá Trần Quí Cáp 
 Còn những góc học tập ư ? là những cái bàn kê ngoài hành lang nhìn xuống đường  . Hàng lang này khá rộng , mặc dù bàn học có kê san sát  nhau rồi  mà vẫn đủ chỗ để cho Qùy, những lần từ Caritas  đến thăm tôi  , có chỗ để trượt patin lả lướt .  Góc học tập còn là những  góc quẹo  ở   cầu thang lên lầu . mạnh ai nấy chiếm cứ một chỗ riêng cho mình . Nếu không chịu được thì  đã có nguyên một phòng học lớn ở dưới nhà cạnh phòng ăn , nhưng thường chỗ này không mấy có người xuống học vì ai cũng thích có  một góc riêng  của mình . Riêng tôi mới dọn vào thì chẳng còn  góc nào riêng nữa nên cuối cùng lại nằm dài trên giường để học . Nhớ lại thời đi học Đại Học của tôi thời gian nằm có lẽ nhiều hơn là ngồi ! Thời gian ở Đại Học xá cũng rất vui và đầy ắp kỷ niệm  với  những sinh hoạt chung như  văn nghệ tất niên  với những bản hợp ca hùng tráng như  Bài hát Sông Hồng ( hay Hồng Hà Reo )  hay những vở   kịch tôi từng tham gia hay tự dựng lên . Các bạn bè cùng phòng hay khác phòng  cho đến bây  giờ  tôi vẫn còn giữ được liên lạc như  Xuân Sương , Hồng , Toàn , chị Thu Đàm , Thúy Doan . Chị Hà thì đã mất nhưng còn bạn thân của chị là Như Nguyện  nay đã phiêu bạt về đâu mà giọng Huế ngọt ngào như vẫn còn lanh lảnh bên tai tôi  . 

Tôi chấm dứt học trình Y Khoa ở  đây , sau đó phải dọn ra khỏi cư xá . Chị Hà lúc đó đã lấy chồng về ở bên chồng  vùng Khánh Hội và bà con bên chồng chị là bà Ngọc đang có phòng cho thuê . Đồng thời lúc này Lân cũng phải về Saigon học Nông Lâm Súc  , chị em phải ở chung với nhau ;  thế là tôi dòn đến một căn phòng mới . Tôi không còn nhớ  tiền nhà hồi đó ở Saigon là bao nhiêu nhưng lần đâu tiên dọn vào căn phòng này  thì  thật là kinh hoàng vì nhỏ  tí  và tối tăm  hết sức . Căn phòng khoảng  12 mét vuông là cùng , chỉ kê được một tấm nệm dưới đất  và  một cái tủ commode để quần áo ; tôi không còn nhớ là có bàn ghế hay không nữa mà mọi sinh hoạt đều ở  dưới đất hết . Cũng may có bếp ở bên ngoài  , cửa sổ mở ra một cái giếng trời , vì căn nhà này cũng  đến 4-5 tầng nên cao ngất , và ánh sáng cũng chỉ le lói đến  căn phòng tôi ở , cho nên nếu tôi có mặt ở nhà là phải thắp đèn 100 %  . Cũng may là tôi và Lân cũng chỉ về để ngủ , Lân thì học ở Thủ Đức , khi về khi không , còn tôi suốt ngày cũng đóng đô ở bệnh viện với các phòng nội trú . Xin lưu ý là phòng nội trú bệnh viện tôi cũng không  được ở một mình mà phải chia với  2 hoặc có khi 4 người  .
Ấy vậy mà tôi nhớ  cũng đã từng tổ chức ăn Noel ở trong căn phòng  tối tăm đó và chúng tôi đã trịnh trọng mời bác cả Kỳ và cậu Thọ đến tham dự  . Có lẽ đây là cái Noel đầu đời của tôi khi ra khỏi  căn nhà số 7 ở Dalat .Cũng đủ các món bánh trái , và lại còn văn nghệ văn  gừng , mọi người rất vui vẻ hả hê không nề hà phải ngồi dưới đất trong căn phòng chật chội . Bây giờ nhìn những đồ vật của mình chung quanh  so sánh với cái mới  bắt đầu ra riêng đó mới thấy hồi xưa mình sống đơn giản biết bao , chẳng có gì cả mà tâm hồn lúc nào cũng phới phới đầy tự tin . Vật chất có là gì đâu nhỉ ? Cũng chẳng có đến một cái  tủ quần áo ; mà hồi đó làm gì mà có nhiều quần áo như bây giờ đâu ! Vậy rồi cũng thu vén được hết trong 12 mét vuông này !
Thế rồi cuộc đổi đời đã xảy đến khi tôi đang ở căn phòng này : ngày 30 tháng Tư 75 . Mấy hôm trước đó có lúc cả nhà chị Hà và anh Vinh cùng các cháu kéo qua đây để tránh pháo kích nếu có , rồi những bàn tính đi hay ở . anh Vinh thì cứ quính quáng như gà mắc đẻ còn tôi thì chắc như đinh đóng cột  chẳng đi đâu cả vì còn gia đình và ba má và các em còn ở lại Dalat  , dứt khoát là không , tôi không thể ra đi một mình , mà đi đâu cơ chứ ! Cuối cùng gia đình Hà và chúng tôi không ai đi đâu cả . Mấy đứa con bà Ngọc ở trên lầu cũng đủ mặt , để hôm sau ngày 1-5 ra đường là một cảnh hỗn loạn không thể tưởng được . Xe cộ , đồ đạc quần áo giầy dép vứt đầy đường  , người ta thì  lớp đi hôi của , lớp chạy đôn chạy đáo tìm đường thoát thân vào giờ thứ 25 . Chúng tôi ra bến Bạch Đằng , ở đây cảnh tượng còn hỗn loạn gấp 100 lần ; mấy cái tàu đậu dưới bến đã nêm chặt người  mà vẫn còn người cố bám leo lên . Lúc đó tôi nhìn họ  mà lòng rất bình thản : đi làm gì nhỉ , hòa bình rồi , hết chiến tranh rồi , có lẽ đất nước còn cần đến sự giúp tay của mỗi người chúng ta . Có biết đâu là sau này thì hoàn toàn vỡ mộng !  Ngày mồng 2 hay 3 tháng 5  gì đó thì Má từ Dalat xuống , mừng vui vì thấy các con vẫn còn đủ mặt và  không  suy suyển gì cả  . Má nói tao chỉ  sợ chúng mày nghe  lời  dụ dỗ  mà lên tàu ra đi thì còn biết đâu mà tìm nữa ! Nỗi mừng vui hội ngộ trong cuộc đổi đời đang diễn ra từng dây từng phút mà không ai lúc đó có thể ngờ tới .
Sau đó thì chúng tôi được bà Ngọc đề nghị cho dọn ra căn phòng bên ngoài phía sau , có balcon nhìn xuống con hẻm sau nhà . Ở đây phòng rộng hơn , có cửa sổ , có bao lơn và chúng tôi bắt đầu nghĩ đến trồng cây cảnh cho có màu xanh sau mấy năm chỉ thấy ánh đèn néon . Bàn tay xanh của tôi cũng bắt đầu từ đây . Từ balcon nhìn sang đối diện là một cái sân thượng  rất lớn  với đầy hoa lá và cây kiểng rất đẹp  , hẳn là một nhà tư sản đã chạy đi nên sau đó bắt đầu thấy bộ đội nón cối xâm chiếm căn nhà và sử dụng  cái sân thượng  như  là quê ta có con sông đào xinh xắn ! Tự  do  chặt hết bàn ghế trong nhà nhóm lửa nấu cơm , và cả    thui chó nữa  … Những hoạt cảnh này hàng ngày diễn ra và đánh dấu cho sự bắt đầu một cuộc phá hủy có nguyên tắc thật ghê gớm  của phe thắng cuộc .
Lại nói về căn phòng của chúng tôi , tôi vẫn chưa được một căn phòng riêng vì  ngoài Lân còn có thêm Quỳnh từ Dalat xuống thi Tú Tài Pháp , sau đó thi tuyển vào đại Học và ở lại học Bách Khoa Phú Thọ . Chúng tôi 3 chị em sẽ còn ở dài dài trong thành phố đã đổi tên nhưng vẫn còn gắn bó với chúng tôi với biết  bao nhiêu  là kỷ niệm  vui buồn .Ở đây cũng đã có những buổi văn nghệ bỏ túi rất vui với tiếng đàn của Lân , giọng hát của Hằng , cũng từ Dalat xuống học và ở  nhà chị Hà, thường xuyên có mặt bên chúng tôi , có Hoài Nguyên , Thu Tâm , 2 cô học trò của tôi cũng đầy máu văn nghệ  . Càng cấm chúng  tôi lại càng ra sức hát nhạc Vàng  và những bản nhạc thời thượng lúc bấy giờ như Saigon Vĩnh Biệt , Em còn nhớ hay Em đã Quên  , Nguoì di Tản Buồn …mặc dù bộ đội ở ngay trước  mặt . Đôi khi còn có cậu Thọ đến góp mặt  trong bộ cánh bà ba trắng muôn  thuở của cậu .
Rồi một lúc nào đó chúng tôi lại được dời  qua một căn phòng phía trước nhìn ra mặt đường Hoàng Diệu . Phòng ngày càng lớn hơn , sáng sủa hơn và biệt lập hoàn toàn với những người khác trong căn nhà hầu như tôi chảng bao giờ gặp mặt . Nhưng đó cũng là lúc bắt đầu của những năm đói khổ : gạo phải độn bobo , bắp , bột mì được  phát thay gạo trên nguyên tắc là để làm bánh mì , nhưng làm gì mà có nguyên liệu làm ra ổ bánh mì thơm phức như trước ngày 30 -4-75  , thành thử phải đem luộc lên thành  một thứ bánh bột  chấm nước mắm , hoạc là bán đổ bán tháo cho người ta lấy it tiền còm . Thời gian này chúng tôi thường tự sản xuất ra 2 món trường kỳ kháng chiến là ruốc dừa và phô mai chao , cứ thế ăn với cơm độn , rồi cũng  qua cầu được hết , chúng tôi lúc đó còn trẻ và ăn để mà  sống chứ không sống để mà ăn nên cũng chẳng bao giờ phải kêu than với  ai , cả nước đều như vậy hết mà !
Sau vài năm  tạm ổn , qua thập niên 80 , Ba má quyết định phải mua một căn nhà ở Saigon cho lũ con xếp hàng rắp tâm xuống đây để tiếp tục con đường học tập : Hương , rồi Thảo . Thế là chiến dịch tìm nhà để mua bắt đầu , tôi với Quỳnh lăn lộn khắp hang cùng ngõ hẻm  đi xem nhà  , cái nhỏ quá , cái to quá khong đủ tiền , cái xa quá , cái thì  ở những khu phố chưa đặt chân đến bao giờ , rồi mặc cả , rồi dẫn má đi xem v.v.  cuối cùng chúng tôi chọn được một căn nhà trong hẻm đường Hòa Hưng gần khám  Chí Hòa .
phòng khách nhà ở Hòa Hưng
 Hẻm này khá rộng , cũng không phải đi vào sâu lắm , căn nhà có cửa lưới  , vách tường biệt lập với những nhà chung quanh  , có 2 tầng , có bao lơn  trên gác , hiềm một nỗi là nguyên cái sàn nhà của tầng lầu đã bị cưa đi bán gỗ từ cái thuở nào  mất rồi ! Thử tưởng tượng một căn nhà 2 tầng mà khi bước  vào thì ở trên trống hoác nhìn thẳng lên mái tôn ! Nhà có 2 gian ,bên ngoài là phòng khách , bên trong là bếp khá rộng và phòng tắm  , nhà vệ sinh riêng biệt  , như thế cũng là cao sang lắm rồi vào cái thời bấy giờ . Chúng tôi tự nhủ trần cao thế thì càng mát ,  nhưng còn chỗ ngủ thì sao ?!! Vẫn phải có một cái phòng ngủ cho ít nhất là 2 đứa con gái chứ ! Lúc đó tôi đã  30 tuổi hơn rồi mà vẫn chưa được  một căn phòng  riêng  đâu nhé ! Cuối cùng phải thuê thợ làm lại sàn nhà một nửa tầng trên  với  cầu thang đi lên thành một cái gác lửng  , có cả trần để chống cái nóng hắt xuống từ mái tôn  . Thế là đã có một cái phòng ngủ chung  ra hồn cho lũ con gái , có bao lơn để ra ngồi ngắm thiên hạ qua lại bên dưới , có trồng cả một cây hoa giấy màu đỏ sau đó còn leo lên tận mái nhà để gợi nhớ  lại cây hoa giấy ở cổng nhà số 7 Dalat . Lan can gác lửng trở thành chỗ vắt quần áo , và từ đây chúng tôi có thể ngồi canh nồi cơm hay nồi canh đang sôi sùng sục bên dưới . Cái gác lửng này còn là đài quan sát rất hữu hiệu của chúng tôi . Chả là sàn  bằng gỗ chưa kịp khô hết nên mùa hè nó thu lại , để lộ ra những khe hở tự nhiên dưới sàn , từ đây chúng tôi có thể nằm quan sát phòng khác bên dưới , nhất là khi có những vị khách  không mời  mà đến , trong khi chúng tôi thì quá chán nên rút lên lầu chỉ để lại một đứa bên dưới chịu trận và tiếp chuyện khách . Khi nào chịu hết nổi thì gọi với lên lầu cầu viện đế có người xuống tiếp cứu !


một bữa tiệc ở nhà Hòa Hưng , có má và các bạn ở Chợ Rẫy 

 Đây là nơi đóng đô cuối cùng  của tôi ở Việt Nam cho đến ngày tôi rời khỏi đất nước  . Cũng có rất nhiều kỷ niệm ở đây , khách khứa cũng nhiều , những  bữa tiêc trong gia đình họ hàng  hay   cùng bạn bè cũng thường xuyên diễn ra ; đây cũng là nơi lui tới của các anh chị em họ  , cứ đến đây sẽ được  đón tiếp chỗ  ăn chỗ ở tương đối tử tế . Bác cả Kỳ cũng đã từng đạp xe xuống thăm chúng tôi , cho thấy mối thân tình giữa tôi với bác không phải là nhỏ ! Ngoài ra còn  hàng xóm láng giềng cũng rất tốt với chúng tôi , và ngược lại ,  chả  là tôi đã là bác sĩ nên vẫn thường  có  hoạt cảnh khai bệnh và bán thuốc qua  khung cửa lưới , ngay cả khi tôi không có mặt ở nhà . Hoạt cảnh thường ngày của một khu xóm nhỏ mà thân tình , những người lao động chân tay cuộc sống khó khăn , chúng tôi cũng thường tiếp cận mà không hề thấy xa cách bao nhiêu , tình hàng xóm cũng là đây . Vậy mà tôi chẳng có lấy một hình ảnh nào của  căn nhà này , lúc đó khó khăn làm gì có máy hình mà chụp , mà có máy hình thì cũng để dành cho mỗi kỳ nghỉ hè hay ngày Tết trở về đoàn tụ ở Dalat – Dalat La Belle - mới được đem ra xử dụng  , còn ở đây  Saigon , coi như là một chỗ tạm dung không đáng kể , dù  là hôm nay ngồi nhớ lại thấy cũng đầy ắp kỷ niệm khó quên  đã đi qua nơi này .

Thế rồi cùng với  thời cuộc xoay vần  con đường phiêu lưu của gia đình chúng tôi bắt đầu . Trước tiên là tôi với Quỳnh  hai đứa ở Saigon được lên đường sang Bỉ sớm nhất . Không kể hết những bỡ ngỡ khi bước chân ra khỏi đất nước  đã bao năm bị bế quan tỏa cảng  cắt rời với  thế giới bên ngoài , chúng tôi như 2 con mán trong rừng ra  rớt cái tõm xuống một  nơi thật xa hoa lộng lẫy ngoài sức  tưởng tượng  , đầu tiên là phi trường Bangkok , sau đó là phi trường Zaventem . Nước Bỉ đón chúng tôi trong cái se lạnh  và một bầu trời xám  đang trở sang thu một ngày tháng 9 . Chỗ ở đầu tiên là  nhà Quí ở Sanatorialaan  , một ngôi biệt thự  nhỏ xinh sắn  như nhà của Bạch Tuyết vậy  , với vườn cỏ và cây cối xanh um chung quanh .
Sanatorialaan mùa đông
Sau này tôi sẽ  được chứng kiến mùa thu đầu tiên ở đây  và  mùa xuân  với mấy cây anh đào Nhật Bản nở hoa trắng xóa  trên nền có xanh mướt  , đẹp tuyệt vời !  Nhưng trở về chuyện phòng ốc  thì sau một thời gian ngắn tá túc ở nhà Quí  , chị em chúng tôi dọn lên Bruxelles ở trọ trong một phòng  của căn hộ của Lut , chị của Rita   , để tiện việc  đi lại  vì chúng tôi phải mau  đi ghi tên học  lại đại học ở đây .  Tôi không nhớ bao nhiêu về căn phòng này  ngoại trừ căn bếp  đầy đủ tiện nghi của Lut lúc nào cũng  ngăn nắp với hàng nồi niêu  bằng đồng sáng loáng ; Hầu như chằng  có ai nấu nướng gì ở đây  , bởi vậy mới sạch  và đẹp đến vậy .
Khi cả đại gia đình qua tới nơi thì chúng tôi  dọn đến một căn hộ với 3 – 4 phòng ngủ  ở trên tầng áp mái của một căn nhà  cổ rất lớn ở đường  Livourne . Mỗi phòng ngủ chứa được  3-4 người  , cả nhà dồn hết vào đây  , có một căn bếp lớn và phòng  tắm và vệ sinh đàng hoàng .Ở đây là nỗi vui đoàn tụ cùng các em và ba má  . Đối với tôi là cả một hạnh phúc  lớn lao vì tôi vốn là đứa đã phải xa nhà từ năm 18 tuổi đi học xa  , mỗi năm chỉ về gặp mặt gia đình 2 lần trong dịp Tết và nghỉ hè . Lúc bấy giờ chúng tôi chẳng có gì cả từ quần áo đến vật gia dụng  , phần lớn là công góp  nhặt từ bạn bè của Quí và Rita  . Không có bao nhiêu nhu cầu , niềm vui là được  ở chung trong một mái  nhà với những bữa cơm  vui như  Tết ; mỗi đứa có một con đường riêng , một mục đích phải theo đuổi  để tiến lên phía trước .  Chúng tôi lúc đó đều hết sức  tự tin và có nhiều cố gắng để đi trên con đường mới mẻ này  mong đến ngày có thể tự lực cánh sinh .  Có lẽ vì vậy mà chúng tôi  đã thành  công sau này  trong việc  hội nhập được với xã hội mới và tự tìm  cho mình một chỗ đứng an toàn .
Thế rồi cả nhà lại được  dời về một căn nhà riêng biệt  thuê được ở Halle . Nhà có 2 tầng , mỗi tầng 2 gian  , với một miếng đất đằng sau rộng thênh thang , tha hồ cho ba má trồng cây làm vườn  . Chỗ này tương đối ổn định cho ba má nhưng các con , tùy nhu cầu công việc và học hành mỗi đứa lại phải tìm cách trở lên Bruxelles . Quỳnh đã xin  được phòng trong campus của đại học Louvain La Neuve , là đứa đầu tiên  ra khỏi nhà , sau đó đến gia đình Lân lên Lambermont  ở vì có việc làm trên đó . Còn lại gia đình Quỳ , Lộc , Hương , Thảo và tôi  lại trở về Bruxelles , thuê được một căn hộ có 3 phòng ngủ ở đường Louvain , ngay đằng sau tòa nhà quốc hội  . Tôi còn nhớ đây là một ngôi nhà cổ , có lối vào rất rộng ( đủ cho xe ngựa  vào được bên trong  thời xưa ) . các phòng trên gác đều rộng và có trần thật cao với các hoa văn mỹ thuật ; có được một phòng khách rộng , một phòng ngủ  lớn cho gia đình Quỳ , một phòng áp mái cho Hương , Thảo , và một phòng ở lơ lửng giữ 2 tầng cho tôi .Thế là đến năm 40 tuổi tôi mới có được  một không gian riêng cho mình . Phòng  cũng nhỏ , không khí ẩm thấp  vì mặt trời vốn đã hiêm hoi ở xứ Bỉ này không rọi vào tới được mặc dù có một cử sổ  mở ra cái giếng trời ( lại giếng trời ! đời tôi thường gắn bó với mấy cái giếng trời !  )  Tầng trên ngay đầu tôi là phòng tắm  bởi vậy mà ẩm thấp , chắc là có nước rò rỉ đâu đây . Nhưng lúc đó tôi cũng không quan tâm lắm , miễn có chỗ để bàn  ghế học tập , có giường để ngủ và có một tủ của « bà sơ »  để quần áo là được rồi . Mục đích là phải thi đậu , phải ra trường để đi làm tự  nuôi thân . Ngày cuối tuần chị em tôi đều kéo nhau về nhà ba má ở Halle  , lại tụ tập ăn uống  ở đây , làm vườn , chơi đùa với các cháu , đi dạo đi xe đạp dọc con kinh ở sau nhà  . Nơi đây là chỗ nghỉ  ngơi sau 1 tuần mệt nhọc  , cũng là chỗ nghỉ hè lý tưởng chẳng cần đi đâu xa  , cùng với nỗi vui đoàn tụ và cảm thấy an tâm trong vòng tay bao bọc của ba má . Ba Má lúc ấy cũng đã lớn tuổi  và hằng ngày mong ngóng cuối tuần các con hội tụ đông đủ . Không thể quên lũ con và lũ cháu cũng từ nơi này được bồi dưỡng đủ lông đủ cánh đến ngày cất cánh tự bay lên .Ngôi nhà như một cái trụ cho chúng  tôi bám vào , không khác gì  nhà số 7 Yagut ngày xưa .

phòng mạch đầu tiên 
Tôi ra trường cầm mảnh bằng trong tay phải mau chóng tìm nơi chỗ để mở phong mạch và làm việc  . Cuối cùng tôi cũng kiếm được một chỗ ở gần căn nhà tôi đến trọ đầu tiên ở Bruxelles nơi  nhà của Lut . Hình như vô hình chung mình vẫn muốn   quay trở về một chốn  cũ nào đó .  Căn hộ này có 2 tầng , tầng trên để làm phòng mạch , tầng dưới để  ở .  Từ đây trở đi tôi mới thực sự ra riêng  và bươn chải với đời . Ở đây mới đúng là một mình một cõi và cũng không còn ba má bên cạnh  , không còn các em đã từng đi theo với mình mấy chục năm nay . Nhưng trước khi dọn đến nơi ở mới này , còn phải sơn sửa  cho ra hồn một phòng mạch bác sĩ  cái đã . Trong khi đó thì một ngày kia  , trong căn phòng cũ đầu đời của tôi ở đường Louvain , đột nhiên nguyên cái trần nhà đã đổ sập xuống  , có lẽ do nước rò rỉ  bao ngày từ phòng tắm bên trên mà không biết . Cũng may lúc đó tôi không có mặt ở đó  , chỉ còn biết bàng hoàng nhìn một đống gạch ,  vôi , rữa tung tóe trong phòng . Thế là tiêu căn phòng đầu đời của tôi ,  như thể đánh dấu một bước ngoặt quan trọng  nhất trong cuộc đời mình !


Tố Mai ( Bruxelles 16/7/2015  ) 

1 comment:

  1. Hay lắm! Bao nhiêu kỷ niệm với những ngày đầu đặt chân đến xứ Bỉ!

    ReplyDelete