Pages

Monday, May 11, 2015

Thành phố Trắng và dàn hoa pháo (Tố Mai)


Dạo cuối tháng 12, chúng tôi có dịp đến thăm một thành phố nhỏ nằm ven biển miền nam của Tây Bân Nha. Xa những xô bồ của khối lượng du khách thường đổ đến miền Andalousie này, thành phố khiêm nhượng nép mình bên sườn đồi thoai thoải đổ ra biển và biển hôm ấy thật trong xanh màu da trời, như trong những tấm ảnh carte postale mà khi nhìn thấy chỉ muốn nhảy lên một chuyến máy bay và bay ngay đến tận nơi.

Những ngôi nhà nho nhỏ xinh xinh với mái ngói đỏ và tường quét vôi trắng toát  nằm dọc đường đi, nổi bật  trên nền đá màu xám của núi đồi và màu xanh của biển cả . Đó là NERJA , thành phố Trắng và cũng được mệnh  danh là Bao Lơn của Châu Âu nhờ một mỏm đá cao nhô ra  trên măt nước. Đứng ở đây mà ngắm biến Địa Trung Hải đẹp phải biết  như một bức tranh vẽ, biển xanh, núi xám , nhà trắng , hòa quyện nhau đến thật tài tình.

Sau đó chúng tôi  vào trong phố đi dạo qua những con đường nhỏ hẹp ngoằn ngoèo với tiếng nhạc Giáng Sinh vang vọng bên tai và  các hàng quán sặc sỡ bán  những món hàng đặc  sản của  vùng này, nhất là những món đồ gốm thủ công, bát đĩa chai lọ, với những  hoa văn rất đẹp, nhưng giá cả thì như ở trên trời!

Sau đó tình cờ quẹo vào một con phố nhỏ ít người  qua lại , tôi chợt sững người  vì ở trên đầu là một  giàn hoa pháo màu cam rực rỡ dăng từ bên này sang bên kia của con đường.  Bất ngờ đến thế là vì từ dạo rời bỏ quê hương và Dalat đến định cư ở Bỉ, dễ cũng hơn 25 năm, tôi chưa từng thấy lại giống hoa này, mặc dù cũng đã bôn ba nhiều nơi nhiều chốn rồi. Hoa từng chùm màu cam rất đậm , hình nhọn  như những chùm tia nắng tỏa ra. Ở Dalat khi xưa hoa này mọc rất nhiều, được trồng quanh hàng rào những ngôi biệt thự  hoặc bám lên vách và phủ kín  một mặt tường, chỉ chừa  ra những khung cửa sổ , đứng ngoài nhìn vào hết sức là huyền bí và kêu gọi bao nhiêu  trí tưởng tượng và óc tò mò của bọn trẻ  con ngày ấy .

Đi thêm mấy bước nữa chúng tôi lại thấy những giàn hoa pháo ở khắp nơi, cũng bên hàng rào nhà người ta, làm thành từng tấm thảm màu cam rực lên trong ánh nắng trong vàng của một ngày cuối năm. Hình ảnh của hoa pháo vô tình lại đưa tôi về với kỷ niệm, của Dalat với thời thơ ấu xa xưa, nhưng nhất là gợi cho tôi nhớ về Ba. Ba đã gắn liền với hình ảnh của hoa pháo, không phải vì Ba rất yêu thích loại hoa này mà vì nó gắn với một kỷ niệm khó quên. Số là thời  đó chúng tôi rất mê các loại hoa thấy trong vườn nhà người ta, và thường thì nhất quyết tìm cách mang về trồng trong vườn nhà mình. Hoa pháo cũng thế.

Chúng tôi đã đánh được một cây về trồng ở vườn trước nhà, khi nó còn nhỏ thì chẳng ai để ý, khi nó đă lớn và vươn những dây leo mềm mại không biết bám vào đâu thì chúng tôi quyết định cho nó leo lên  vách tường của căn nhà, phía bên gốc  cây đào và từ đó sẽ bò ra cái lan can ở lầu một . Cứ tưởng tượng mình sẽ có một giàn hoa pháo rực rỡ trên lan can nhà mà đã sướng mê đi được! Thế là nhân lúc Ba đi Saigon cất hàng, ở nhà chúng tôi đã làm dây cho hoa leo lên của sổ và đến tận lan can trên lầu. Đến khi cây lớn dần, bắt đầu leo bám vào dây và bò đến tân vách tường nhà thì một ngày kia Ba tôi chợt nhìn thấy nó. Thế là thế nào! Sao lại để nó leo vào nhà thế kia, có ngày sập cả nhà! Làm sao mà những đám hoa nhỏ bé thế kia mà có thể kéo sập được ngôi nhà 2 tầng! Nhưng mặc kệ , Ba là người rất nguyên tắc , không thể để một cái gì đi ra ngoài cái kỷ luật của Ba. Thế là trong một buổi chiều Ba đã ra tay chặt hết cây hoa pháo của chúng tôi, trước những con mắt đau khổ và tiếc nuối của lũ trẻ. Và hình ảnh này cứ như in vào tâm não tôi. Nay chợt thấy lại hoa pháo ngày xưa, tôi không khỏi  nhớ tới Ba, người đã ra đi đến nay đã 9 năm .

Ba vốn là người thầm lặng ít nói, những tình cảm của Ba chẳng nói với ai, nhưng  Ba đã chịu khó ghi lại trong sách vở. Hồi còn bé tôi đã từng leo lên nóc cái tủ quần áo to đùng trong phòng ba má để đọc những dòng nhật ký của Ba ghi lại trong một cuốn sổ rất to. Khi đó còn quá nhỏ tôi không cách nào rinh cuốn sổ đó xuống được nên đành ngồi luôn trên đó mà đọc. Những đoạn đời Ba ghi lại là thời Ba còn ở ngoài Bắc, một thế giới hoàn toàn xa lạ với chúng tôi nên cũng không lấy gì làm quan tâm lắm và đến nay thì đã hoàn toàn quên sạch! Khi ổn định cuộc sống ở Dalat, Ba không còn viết nhật ký nữa. Với một đàn con 7 đứa, Ba Má đã chật vật bươn chải để nuôi dậy chúng tôi và cho chúng tôi có được ngày hôm nay.

Lúc phải quyết định rời bỏ Dalat, rời bỏ quê hương để đến một bến bờ hoàn toàn xa lạ chắc hẳn Ba Má đă đắn đo suy nghĩ nhiều lắm. Ba Má chắc đã phải đau đớn nhìn lại cơ ngơi Ba Má đã tạo dựng lên từ hai bàn tay trắng, căn nhà số 7, lúc một tầng rồi đến hai tầng, rồi cửa hàng Nhật Tân. Bao nhiêu công sức và nghị lực gây dựng từng ngày, thế mà bỗng chốc phải bỏ hết mà đi, nghĩ lại mới thấy sự hy sinh của Ba Má mới to lớn dường nào, ra đi để cho các con các cháu  có tương lai, có được  như ngày hôm nay. 

Sang đến xứ sở định cư này, vô hình chung Ba Má cũng đã bị gạt ra bên lề của cuộc sống, ở đây Ba Má không còn thi thố được tài năng gây dựng cơ đồ nữa, đến phiên các con lăn xả vào cuộc sống mới và mỗi đứa tư lo cho bản thân và gia đình riêng của mình. Nhưng không biết Ba Má lúc đó có biết không, là Ba Má đã là một chỗ dựa tinh thần lớn lao nhất cho các con. Làm gì thì làm, mỗi cuối tuần phải về tề tựu đầy đủ ở nhà Ba Má, như thể tìm về một tổ ấm để được an ủi nuông chiều như thuở còn bé thơ. Ba Má như là một cái nóc nhà vững chãi  mà mỗi đứa con, ngay cả khi đã  đi xa cũng cần phải có. Giai đoạn này Ba lại trở về với việc viết lách. Từ năm 90 Ba bắt đầu làm thơ, những bài thơ phản ảnh tâm tư của Ba, nỗi nhớ nhà triền miên, nhớ quê hương nay đã xa tắp biền biệt. Sau này khi Ba đã mất rồi chúng tôi mới có dịp đọc lại những bài thơ, những bút tích của Ba, với nét chữ thẳng tắp, đều đặn, chữ Ba viết rất đẹp, những  cuốn sổ này tôi vẫn còn cất  giữ mãi :

Chạnh lòng buồn nhớ quê hương ,

Muốn về quê mẹ nhưng đường thì xa ,

Lang thang những buổi chiều tà ,

Đường trần cất bước chân già lê thê .

Chúng tôi cũng thu xếp cho Ba Má về thăm lại quê hương năm 1998  Ba Má về Dalat, về quê miền Bắc, được cả làng ra đón, chắc Ba Má cũng chẳng còn nhớ ai với  ai, nhưng cũng là mãn nguyện rồi, cho bớt những ray rứt trong lòng kẻ  đã phải cắt đứt những dây mơ rễ má để  ra đi. Sau đó thì Ba không còn muốn về thăm quê nữa, có hỏi Ba có muốn về nữa không thì Ba chỉ im lặng lắc đầu: về làm gì?

Ba cũng là người thích thiên nhiên, thích phong cảnh , chỗ nào đẹp , dẫn Ba đến xem Ba cũng rất thích , những công viên mùa hoa nở nào chúng tôi cũng dẫn Ba đến nơi từ Huizingen  đến Keukenhof, Ba đều tỏ vẻ thích thú, và rất thích chụp hình, chỉ cần nói Ba đứng đây cho con chụp là  Ba sẽ đứng vào vị trí ngay không cần phải năn nỉ như  Má, và Ba chỉ có một  một dáng đứng từ bao nhiêu năm không thay đổi, từ ngày Ba đứng chụp hình trước của tiệm Nhật Tân những năm 60 cho đến những năm cuối đời, vẫn dáng đứng nghiêng, chân trước chân sau, vẻ mặt nghiêm nghị không bao giờ cười! Đố ai bảo được Ba cười để chụp hình! Ba cũng rất thích hoa, chảng thế mà Ba đã rắp tâm đặt tên cho một những cô con gái là Hoa , nhưng đã bị Má gạt đi! Ba thích nhất là hoa hồng màu đỏ, lần dẫn Ba đi vườn hoa hồng  Coloma, Ba  cũng phải tấm tắc khen và đòi chụp hình với những đóa hoa hồng to nhất màu đỏ thắm .

 Nhưng những chỗ Ba đã đi rồi Ba sẽ không trở lai nữa, đi rồi, biết rồi , ngoại trừ  khu rừng Halle. Đúng vậy đây là một ngoại lệ. Cũng như chúng tôi, Ba Má cũng rất gắn bó với rừng Halle, nó ở gần nhà, chẳng phải đi đâu xa thoắt một cái là đến nơi và đến đây là cả một trời thần tiên mở ra  không bút nào tả siết.  Lần đầu tiên Ba Má không ngớt suýt xoa, sao mà đẹp thế, sao mà hoa nhiều thế, không biết bao nhiêu hình đã được chụp ở đây, chụp chung, chụp riêng, chụp cả nhà!




Nhưng có lẽ Ba Má không thích màu hoa tím rừng Halle bằng mùa hạt dẻ. Phải, mùa hạt dẻ rơi rụng là mùa mà cả Ba lẫn Má đều hân hoan đón chờ vào rừng đi lượm. Mải mê thu hoạch, có đến cả mấy chục ký mà bảo thôi thì không ai chịu ngưng tay hết. Lần cuối cùng Ba đến rừng Halle để lượm hạt dẻ, tôi còn nhớ, Ba đã yếu đi nhiều, không còn đi xa được nữa, chúng tôi cũng không dám đi nhiều, và để Ba đến ngồi trong căn lều ở bờ rừng và tôi vẫn còn nhớ như in hình ảnh của Ba trong chiếc áo bành tô  ngồi nghỉ trên một gốc cây ở đây, mắt  nhìn mông lung vào rừng, hơi thở dồn dập vì mệt. Hỏi Ba có muốn về không thì Ba bảo không, để Ba nghỉ một tí thôi. Sau đó thì Ba ngã bệnh và hơn 6 tháng cuối của cuộc đời Ba không còn dịp nào trở lại rừng Halle nữa.

Sắp đến ngày giỗ của Ba, bồi hồi nhớ về Ba với những kỷ niệm xa gần, tôi cố ghi lại vài dòng, sợ rằng sau này có khi mình sẽ bị bệnh lãng quên và không còn ghi lại được nữa. Thói quen viết lách này cũng thừa hưởng từ Ba, người văn hay chữ tốt nhất họ và nhất làng Thượng ngày nào.

Trên bàn thờ Ba sẽ có hoa đỏ, màu Ba thích nhất, có còn nhớ chiếc cà vạt đỏ của Ba luôn hiện diện trong những tấm hình chụp không? Còn món ăn Ba ưa thích ư? Có lẽ món cơm với đường chăng? Tôi chỉ biết  chắc là Ba ghét nhất món trứng dưới mọi hình thức, từ bún riêu đến trứng chiên, trứng nguậy. Vậy chớ có mà để món gì có  trứng trên bàn thờ Ba đấy nhé!

 
Căn lều ở rừng Halle, nơi Ba ngồi nghỉ lần cuối cùng đi thăm rừng

Ngày 7 tháng 5 năm 2015 (ngày giỗ Ba)


TỐ  MAI

1 comment:

  1. le bois de Halle! Oui...un matin tot au mois de mai, je me suis promene la bas pour faire les photos des champs de fleurs, et Mai m a telephone... c est ainsi qu une tranche de ma vie est perdue. Aujourd hui, seul dans une ville sans ame, je me souviens de rare moments partages avec papa et maman, larmes aux yeux.
    Qui.

    ReplyDelete